Phương pháp Terjesen dễ thực hiện, giúp chẩn đóan trật khớp hông trẻ em dưới 3 tháng tuổi. Phương pháp Graf giúp phân lọai khớp hông của quần thể khảo sát và nghiên cứu. Kết hợp cả 2 phương pháp khám cùng lúc làm tăng độ tin cậy khám siêu âm khớp hông ở trẻ em là điều chúng tôi đã thực hiện trong nghiên cứu này.
KẾT QUẢ=
Số liệu trật khớp hông ở nhóm trẻ sơ sinh nguy cơ cao (n=811 bé, 1.622 khớp) của chúng tôi =
Nếu dựa vào
@ Độ che phủ chỏm xương đùi nhỏ hơn 37% (phương pháp Terjesen) = tỉ lệ trật khớp hông là 167/1622 (9,92%).
@ Góc alpha nhỏ hơn 43 độ (phương pháp Graf) = tỉ lệ trật khớp hông là 91/1622 (5,61%)
@ Với 2 phương pháp trên cùng lúc=tỉ lệ trật khớp hông là 60/1622 (3,69%).
Khám siêu âm khớp hông phương pháp động
BÀN
LUẬN:
1/ Về tỉ lệ
trật khớp hông ở trẻ nguy cơ cao:
Tỉ lệ trật khớp hông của 3613 trẻ sơ
sinh trong 48 giờ sau sanh là 3,4% (Rosendahl, K. 1997). Ở Na uy, 85% trẻ sơ
sinh có khớp hông bình thường về hình thái (dựa vào góc a), trong khi 12 % chưa trưởng thành và 3% loạn triển. 80-90% trẻ có
thiểu sản ổ cối (dysplasic acetabula) cho thấy chỉ có thay đổi nhỏ và khớp hông
bình thường trở lại mà không cần điều trị ở nhiều trường hợp. Trong khi đó,
Ortore,P. với 18.388 khớp hông khảo sát từ 3/1986-6/1995 tại Ý có tỉ lệ dương
tính là 2,81% theo phương pháp Graf với 0,65% của số này là bán trật. Với
Curro,V.(1995) khám siêu âm khớp hông 504 trẻ : 17 bệnh lý (3,3%), 30 giáp biên
(6%) và 457 bình thường (90,7%). Ở Áo, tỉ lệ khám siêu âm trật khớp hông là
6,57% (1994)(Grill,F.1997).
2/ Về đối tượng khám:
Teanby,DN. (1997) cho rằng các chương trình tầm
soát có mục tiêu (targeted screening programmes) có thể làm giảm xuất độ trật
khớp hông muộn phải điều trị mổ. Theo Donaldson,JS (1997) nên khám siêu âm tầm
soát có mục tiêu ở trẻ nguy cơ cao (targeting high-risk infants) vào tuổi 4 - 6
tuần. Tại Đức, siêu âm khớp hông là bắt buộc cho các trẻ sơ sinh từ 3 tuần đến
6 tuần tuổi (1).
3/ Về phương pháp phát hiện trật khớp hông:
Donaldson,JS (1997)
cho rằng khám lâm sàng cẩn thận vẫn là phương pháp đầu tiên và quan trọng nhất
để phát hiện loạn sản khớp hông trẻ sơ sinh. Khám nhiều lần trong năm đầu tiên
là quan trọng cho việc chẩn đoán LSKH trong giai đoạn sơ sinh. Siêu âm dùng
phát hiện những ca LSKH yên lặng về lâm sàng. Khám siêu âm thêm để phát hiện
LSKH nên tầm soát có mục tiêu ở trẻ nguy cơ cao (targeting high-risk infants)
vào tuổi 4 - 6 tuần. Khi siêu âm không phát hiện LSKH thì dùng X-quang khung
chậu lúc 3 tháng tuổi ở trẻ nguy cơ cao. CT scan và MRI chỉ dùng cho các trường
hợp LSKH nặng, thường là khảo sát trước mổ giúp phẫu thuật viên chỉnh hình chọn
lựa phương pháp thích hợp.
Terjesen,T. (1996)
khám siêu âm cho 566 trẻ từ 1-23 tháng khảo sát độ che phủ chỏm xương đùi kết luận rằng phương pháp này nhanh chóng
và đáng tin cậy cho trẻ 1-2 tuổi, nếu siêu âm được dùng như là phương pháp chẩn
đoán hình ảnh đầu tiên, có thể hủy bỏ chỉ định dùng X-quang cho 95% trẻ mà lâm
sàng nghi là LSKH vì khớp hông của chúng vốn dĩ bình thường.
Holen,KJ.(1998) phát
hiện 108/202 ca sơ sinh trật khớp hông với độ
che phủ chỏm xương đùi trung bình là 37%, trong khi 94/202 ca bình thường
có độ che phủ chỏm xương đùi trung
bình là 53%.
4/ Về tương quan giữa các phương pháp phát hiện:
4.a. Với siêu âm:
Graf,R.
(1997) cho là siêu âm khớp hông vẫn còn là vấn đề tranh cãi ở nhiều nước, do
những yêu cầu khác nhau của chẩn đoán. Về nguyên tắc, các phương pháp của Harcke,
Terjesen và Suzuki giúp phân biệt sự trật khớp nhưng các phương pháp này không
đánh giá sụn hyalin sẽ trở thành mái ổ cối (acetabulum roof). Đặt xéo đầu dò
khi khám có thể làm chẩn đoán sai, và siêu âm 3D giúp tăng cường khả năng chẩn
đoán.
Czubak,J. (1998) đối
chiếu phương pháp Graf và Terjesen ở 657 trẻ sơ sinh, tỉ lệ LSKH theo Graf là
3,9% và theo Terjesen là 2,9%.
4.b. Giữa siêu âm và lâm sàng:
Rosendahl,K. (1997) đối chiếu lâm sàng và siêu
âm ở 3613 trẻ sơ sinh trong 48 giờ sau sanh, phát hiện 123 ca trật (3,4%) với
55 ca (45%) tương hợp về lâm sàng và siêu âm, 52 ca (42%) chỉ dựa vào siêu âm
và 16 ca (13%) chỉ dựa vào lâm sàng. Holen,KJ. (1998) phát hiện 108 ca sơ sinh
trật khớp hông với độ che phủ chỏm xương
đùi trung bình là 37%, trong số 202 ca nghi trật khớp hông khi làm nghiệm
pháp Ortholani và Barlow (143 ca không ổn định và không kết luận được 59 ca).
4.c. Giữa siêu âm và X-quang:
Joseph,KN (1997), nêu lên sự không nhất quán
giữa siêu âm và X-quang với 4.984 ca có 48 ca không tương hợp (0,96%). Melzer,
C.(1997) nhận thấy sự không nhất quán giữa siêu âm và X-quang thường xảy ra khi
đường viền của ổ cối (acetabulum) không tương ứng với phần giữa (mid-portion)
mà với phần trước hay phần sau (ventral or dorsal section) của ổ cối.
KẾT LUẬN:
Áp dụng tỉ lệ độ che phủ chỏm xương đùi nhỏ hơn 37% (phương pháp Terjesen) và phương pháp Graf trong
khám siêu âm khớp hông có lợi ích trong 4 tháng đầu tiên, khi điểm cốt hóa ở
chỏm chưa xuất hiện rõ trên phim X-quang. Với siêu âm trẻ tránh được nhiễm tia,
hơn nữa, có thể khám đi khám lại nhiều lần để có chẩn đoán chắc chắn và cũng để
theo dõi kết quả tập vật lý trị liệu.
Kết quả thu thập được của chúng tôi nhìn chung
phù hợp với y văn, và công trình vẫn đang tiếp tục triển khai để phát hiện LSKH
ở trẻ sơ sinh ở mẫu nghiên cứu rộng hơn.
Lời cảm ơn:
Chúng
tôi xin cảm ơn bác sĩ Nguyễn thị Thanh Bình và các bác sĩ Khoa Sơ sinh bệnh
viện Phụ Sản Từ Dũ, và bác sĩ Nguyễn văn Công, bác sĩ Lưu Hồng Sơn (Khoa
X-quang Medic) đã nhiệt tình hợp tác thực hiện đề tài này. Abstract: Ultrasound on Developmental Dysplasia of the Hip of the Newborns.
TRAN NGAN CHAU-NGUYEN THIEN HUNG, MEDIC MEDICAL CENTER, HCMC, VIETNAM
Objective: The
aim of this study is shown the roles of ultrasound in detecting and following–up
in the developmental dysplasia of the hip (DDH).
Methods: A cross-
sectional prospective study of ultrasound on 1,622 hip joints of 811
under-9-month-old babies who have high risk (family history of DDH, breech
presentations, club foot deformity or metatarsus adductus on clinical
examination…) . We use the Graf’s method ( alpha and beta angle) and the Terjesen’s
method ( the proportion of femoral head coverage) for investigation the studied
population.
Conclusion: Ultrasound
plays an important role in detecting and
following-up DDH in early days after birth, instead of screening with
the standard pelvis X-ray. Terjesen’s method is more
simple and sensitive than Graf’s method.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét