Thứ Sáu, 4 tháng 9, 2009

SHEAR WAVE ELASTOGRAPHY

SHEAR WAVE ELASTOGRAPHY
(ĐO ĐỘ ĐÀN HỒI SÓNG BIẾN DẠNG)

NGUYỄN THIỆN HÙNG dịch
Trung tâm Y khoa MEDIC HÒA HẢO
Thành phố Hồ Chí Minh
Từ Taking Ultrasound to the Next Level With Shear Wave Elastography, J. SOUQUET, Diagnostic Journal, Vol V No4, pp 8-9.

Một trong những phương pháp phát hiện và phân loại bệnh học chính là sờ xem cấu trúc bệnh lý có cứng không. 5000 năm trước, thời Pharaon Ai cập, đã biết có một khối cứng trong một cơ quan là dấu hiệu bất thường. Từ đó kỹ năng sờ được dùng để phát hiện và chẩn đoán bệnh và cũng được phẫu thuật viên dùng trong lúc mổ và can thiệp ngoại khoa để tìm vùng cơ thể mắc bệnh.


Ngày nay, Elastography (phương pháp đo độ đàn hồi), một kỹ thuật siêu âm dùng để tìm các chỗ cứng bất thường của mô cơ quan đã làm được điều này. Độ cứng của mô được đo bằng định lượng vật lý gọi là Young’s modulus và trình bày bằng đơn vị áp lực gọi là Pascals hay thường dùng hơn là kiloPascals (kPa).
Cùng với Elastography, Shear Wave Elastography, phương pháp mới dựa vào kỹ thuật MultiWave đã lộ diện, dùng để hình ảnh hóa sóng siêu âm B-mode và loại sóng âm mới, sóng âm biến dạng (shear wave).
Shear Wave Elastography có thể chộp được chuyển động truyền sóng âm biến dạng (shear wave) trong mô mà cho đến nay chưa có kỹ thuật nào khác có thể phát hiện được. Shear Wave Elastography capturing và định lượng tốc độ lan truyền shear wave, và đo được độ đàn hồi mô theo đơn vị kilopascals.

Đo độ đàn hồi là một bước quan trọng trong chẩn đoán vì có liên quan đến bệnh học. Và ShearWave Elastography là kỹ thuật siêu âm thế hệ kế tiếp hứa hẹn nhiều lợi ích trong chẩn đoán hình ảnh và ý nghĩa lâm sàng.

DÙNG SÓNG ÂM BIẾN DẠNG (SHEAR WAVE) ĐỂ XÁC ĐỊNH ĐỘ CỨNG CỦA MÔ

Dòng máy Aixplorer với kỹ thuật ShearWave Elastography tạo sóng âm biến dạng tần số thấp (low-frequency shear waves) trong cơ thể bằng cách dùng chùm tiêu điểm (focused beams) của năng lượng âm với đầu dò quy ước và hoàn toàn an toàn cho bệnh nhân. Khi shear waves di chuyển trong cơ thể, gặp nơi mô bị cứng, tốc độ sóng âm sẽ thay đổi. Nếu một sóng shear wave đi qua mô bị cứng, tốc độ truyền sẽ tăng lên. Tốc độ truyền của một sóng shear wave trong mô liên quan trực tiếp với độ đàn hồi mô (Young’s modulus).
Shear wave dựa vào Elastography là cách tiếp cận duy nhất để đo được và có thông tin về độ đàn hồi tại chỗ trong thời gian thực (real time). Tuy nhiên cần có kỹ thuật siêu âm cao thích hợp để vận hành. Để có độ ly giải cao, shear waves trong mô cần có tốc độ thu nhận (acquisition rates) ít nhất 5000Hz trong khi siêu âm thường quy chỉ cần khoảng 100Hz.
Dòng máy Aixplorer có thể nhận data ở tốc độ trên 20.000Hz, tức là cao hơn 200 lần và với UltraFast imaging, âm hóa phẳng (flat insonification) được sử dụng, còn hơn cả chu kỳ truyền-nhận quy ước.
ShearWave Elastography không tùy thuộc người sử dụng và không cần ấn bằng tay để đo độ đàn hồi. Nói chung, kết quả có thể lập lại như nhau và bất kỳ lúc nào độ đàn hồi của tổn thương cũng đo được.

SO SÁNH ĐO ĐỘ ĐÀN HỒI BIẾN DẠNG (STRAIN ELASTOGRAPHY) VÀ ĐO ĐỘ ĐÀN HỒI SÓNG BIẾN DẠNG (SHEAR WAVE ELASTOGRAPHY)

Với siêu âm đo độ đàn hồi quy ước, vùng khám được ấn (gọi là stress) và độ biến dạng (gọi là strain) do bị đè xuất hiện. Dù có nhiều phương pháp khác để có strain reading hay strain elastography, cách thường áp dụng nhất là dùng chính đầu dò siêu âm ấn nhẹ lên vùng mô có hình ảnh siêu âm thấy được. Mô dời chỗ ít milimet. Đo độ di chuyển của mô cả bằng A-mode tracking (đường siêu âm đơn độc [single ultrasound line]) hay so sánh hình B-mode trước và sau khi ấn hoặc liên tục ấn đi ấn lại là cách đơn giản nhất để đo độ biến dạng (strain). Real time strain elastography được thực hiện trong 2 chiều do đó đo được sự trượt qua bên (sideslip) trong mặt khảo sát. Với hệ thống tĩnh (static elastography), độ biến dạng mô (tissue strain) được biểu hiện trong thời gian thực, nhưng độ đàn hồi cần được trích ra bằng protocol chính xác của người khám. Thường có nhiều hình biến dạng trong thời gian thực (real time strain) khi người khám ấn đầu dò, chuỗi hình này khi được xem lại và có một hình được chọn coi như diễn tả đầy đủ đặc trưng đàn hồi mô. Chất lượng hình thường được người khám chọn, nhưng chọn lựa tối ưu lại tùy thuộc vào đối tượng khám có hình biến dạng (strain image).

ShearWave Elastography (đo độ đàn hồi sóng biến dạng) khác biệt nhiều với strain elastography (đo độ đàn hồi biến dạng).
Kỹ thuật ShearWave không cần đè ấn bằng tay trên mô ghi hình nên không lệ thuộc người khám. Và vì không cần ấn, ai cũng có thể có được cùng hình mô được khám với cùng kết quả. Nói chung, ShearWave Elastography dựa trên tốc độ truyền của shear waves mà không cần đo độ dời chỗ của mô, nên là kỹ thuật đo thực sự. Vì mỗi điểm của tổn thương đo được có một giá trị bằng kilopascals, kết quả khám có thể lập lại và như vậy theo dõi được khi mô biến đổi.
Gía trị các số đo độ đàn hồi mô tại chỗ là công dụng chính của ShearWave Elastography. Độ biến dạng (strain) tác động lên mô do đè ấn từ ngoài không chỉ tùy thuộc người khám mà còn tùy thuộc vào mô được khảo sát. Cùng một lực ấn, mô biến dạng khác nhau tùy vào vị trí và sự hiện diện của vùng quanh mô bị cứng. Nói cách khác, hình biến dạng (strain image) do kỹ thuật đo độ đàn hồi tĩnh (static elastography) không cung cấp chính xác độ đàn hồi mô tại chỗ. Trái lại, vận tốc truyền shear wave liên quan trực tiếp tới độ đàn hồi tại chỗ của mô. Do đó ShearWave Elastography cung cấp các số đo của độ đàn hồi tại chỗ của mô với độ ly giải từng milimet, nên có thể biết độ cứng và phân biệt ngay cả những tổn thương rất nhỏ, giúp phát hiện tổn thương và hình thái bệnh lý.




 




Tổn thương vú ác tính cho thấy mô bệnh tăng độ cứng (đỏ) khi sử dụng Supersonic Imagine 's Aixplorer. Vùng ROI trong tổn thương (trên) và mô bình thường (dưới) được định lượng trong lúc đo áp lực tính bằng đơn vị kiloPascals (hình do SuperSonic Imagine cung cấp).


Gom lại, các kỹ thuật mới của Shear Wave Elastography cho lâm sàng là=
- Định lượng và cung cấp thông tin mô tại chỗ bằng kilopascals.
- Có khả năng phát hiện độ đàn hồi các tổn thương nhỏ với độ ly giải từng milimet.
- Tạo shear waves tự động từ đầu dò siêu âm, không tùy thuộc kỹ năng người khám và có thể lập lại kết quả.
- Khám real time, giảm phức tạp và kéo dài cuộc khám đo độ đàn hồi, không gián đoạn công việc.






ShearWave của Aixplorer, Supersonic Imagine đo và biểu hiện độ đàn hồi mô tại chỗ theo đơn vị kilopascals.




ỨNG DỤNG TƯƠNG LAI


Đầu dò cong (curved array) thích hợp cho việc khám gan và thận đang được chuẩn bị.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét