Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 21 tháng 4, 2011

Chilaiditi’s sign và Siêu âm chẩn đoán

Từ Prevalence and Sonographic Detection of Chilaiditi’s sign in Cirrhotic Patients without Ascites, Hayato Nakagawa, Nobuo Toda, Makoto Taniguchi, Kenji Ibukuro, Kazumi Tagawa, AJR;187:589-593, 2006)



Chilaiditi’s sign là tình huống xảy ra với một quai ruột non hay đại tràng xen giữa gan và cơ hoành P. Rất hiếm gặp, với tần suất thay đổi từ 0,025% đến 0,28%. Thường không có triệu chứng và được xem là phát hiện tình cờ. Tuy vậy, cần phải nhận ra Chilaiditi’s sign để tránh làm tổn thương ruột trong thủ thuật chọc dò gan qua da (percutaneous transhepatic procedures).

Sơ đồ 3 loại hepatodiaphragmatic interposition (Fukuchi Y và cs). (1) Phần góc gan đại tràng ngang chui vào khoảng dưới hoành P trước (Chilaiditi's syndrome).


Hayato Nakagawa và cs (2006) nhận thấy Chilaiditi’s sign xuất hiện nhiều trong bệnh nhân chai gan không báng bụng hơn trong người bình thường. K. Vessal và cs (1976) với phim phổi cho biết bệnh nhân chai gan có Chilaiditi’s sign khoảng 22% (17/76 ca).


Y văn ghi nhận Chilaiditi’s sign thường gặp trong chai gan, nhưng mối liên quan này chính xác như thế nào thì chưa có kết luận chính thức.

Hình 1: Bệnh nhân nam 55 tuổi, chai gan và có Chilaiditi's sign. Siêu âm qua đường cắt gian sườn khi bệnh nhân nằm ngửa cho thấy quai ruột (mủi tên) ở trên gan P, tuy khó phát hiện. 

Dùng siêu âm có thể chẩn đoán chính xác Chilaiditi’s sign và tránh được nguy cơ thủng ruột vì thường tiến hành chọc dò gan dưới hướng dẫn của siêu âm.

Để xác định có ruột giữa gan và cơ hoành, siêu âm cần tìm gas echoes với nhiều kích thước khác nhau trong khoảng gan và cơ hoành P, hay những cấu trúc dạng ống có echo là quai ruột xẹp. Phải phân biệt quai ruột xẹp với mạc nối lớn, và tư thế nằm nghiêng T rất có ích trong trường hợp này, vì khi nằm nghiêng T, hơi trong ruột sẽ tiến đến ruột ở vùng gan, là chỗ cao nhất, để tích tụ lại nhiều hơn và lòng ruột cũng giãn to hơn.


Hình 2: Siêu âm với cùng bệnh nhân  khi nằm nghiêng T cho thấy gas echo trong ruột (đầu mủi tên) ở trên gan P (L, liver). Ở tư thế này dễ phát hiện được ruột hơn.

Tìm chuyển động nhu động ruột cũng rất tốt để xác định đâu là ruột.

                            Hình 3: CT cho thấy đại tràng lên nằm giữa gan P và cơ hoành P.

Trong 100 bệnh nhân chai gan của Hayato Nakagawa và cs có 5% có Chilaiditi’s sign trên CT. Cả 5 ca này, khi nằm ngửa, siêu âm đều phát hiện có ruột giữa gan và cơ hoành P qua đường cắt gian sườn P. Có 3 ca siêu âm không quan sát được gan P do gas echoes, nhưng vẫn thấy được gan khi chuyển đầu dò ra sau lưng. Do đó độ nhạy và độ chuyên biệt của siêu âm là 100%.

Về lâm sàng, 4 ca không có triệu chứng và 1 ca than chướng bụng. Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về phái tính, tuổi và tình trạng chai gan giữa các bệnh nhân có và không có Chilaiditi’s sign.

Chilaiditi’s sign được xem như mắc phải hơn là do bẩm sinh. Tần suất tăng với nhiều nguyên do, gồm chai gan, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, thai kỳ gần sanh, béo phì, rối loạn tâm thần và K phổi nguyên phát. Choussat và Choussat-Clausse phân làm 3 loại nguyên nhân: ruột, cơ hoành và yếu tố liên quan đến gan (sa gan, gan teo, giãn dây chằng treo gan, và gan bất động do dính). Chai gan thường có xu hướng teo gan, do đó chai gan được coi là yếu tố quan trọng trong hình thành nguyên nhân của Chilaiditi’s sign. Tuy nhiên, 73% trường hợp chai gan có báng bụng từ trung bình đến nhiều; báng bụng tạo ra khoảng trống giữa gan và cơ hoành và ruột dễ dàng di chuyển vào chỗ trống này.

Chẩn đoán phân biệt Chilaiditi’s sign trên siêu âm bao gồm tràn khí phúc mạc, áp-xe dưới hoành và thoát vị hoành.

Tóm lại, tần suất Chilaiditi’s sign xảy ra ở bệnh nhân chai gan không báng bụng cao hơn bình thường và có thể dùng siêu âm để phát hiện ruột giữa gan và cơ hoành P.

----------------------------------------
Ghi chú:
Chilaiditi's sign trở thành Chilaiditi's syndrome khi có triệu chứng như: đau bụng, chướng bụng, chán ăn, nôn, và bón. Có báo cáo còn ghi nhận có xoắn ruột (volvulus).

Không có nhận xét nào :