Nhân đọc bài báo Risk estimation for hepatocellular carcinoma in chronic hepatitis B (REACH-B): development and validation of a predictive score, The Lancet Oncology, Early Online Publication, 15 April 2011 (xem tóm tắt cuối bài).
Tính điểm nguy cơ theo 17 tiêu chí (17-point risk score) không được tác giả nêu cụ thể (nhưng gồm sex, age, serum alanine aminotransferase concentration, HBeAg status, và serum HBV DNA level). Theo Chien-Jen Chen và cs (Nomograms for Risk of Hepatocellular Carcinoma in Patients With Chronic Hepatitis B Virus Infection, 2010) gồm phái, tuôi, lịch sử gia đình có ung thư gan, thói quen uống rượu, mức men gan ALT , hepatitis B envelope antigen (HBeAg) serostatus, serum HBV DNA level, and HBV genotype.
Với M. Sherman (Risks of HCC in Hepatitis B and Prevention through Treatment, 2009), một số yếu tố tăng nguy cơ biến chứng ung thư gan nguyên phát (HCC) gồm :
• Tăng serum alanine aminotransferase (ALT) level có ý nghĩa bệnh đang hoạt động và tăng nguy cơ, đặc biệt tăng ALT liên tục hoặc có nhiều đợt tăng trong nhiều năm.
• Tăng liên tục alpha-fetoprotein level : phản ánh gan trong tình trạng tăng tái tạo; tăng tỉ lệ phân bào làm tăng nguy cơ mutation, dẫn đến tăng nguy cơ biến chứng HCC.
• Lượng tiểu cầu thấp cho thấy có chai gan nên cũng có nguy cơ HCC phát triển.
• Các yếu tố nguy cơ của mô bệnh học gồm loạn sản (dysplasia), thay đổi dạng theo vị trí (geographic morphologic changes) gợi ý có tế bào sinh sản vô tính (clonal populations of cells), và nhuộm dương tính cho kháng nguyên nhân tế bào tăng sản (positive stain for proliferating cell nuclear antigen).
• Tình trạng mang virus viêm gan siêu vi B (HBV DNA) ≥ 10^5 copies/mL là tiên lượng của biến chứng ung thư gan HCC có ý nghĩa ,ở bệnh nhân viêm gan B mạn tính trên 30 tuổi.
Ung thư gan nguyên phát : bệnh phẩm đại thể.
1. Về C I (Cumulative Incidence), tỷ suất mới mắc tích lũy =
Để tính tần số mới mắc bệnh của một quần thể trong một khoảng thời gian nào đó.
Tỷ suất mới mắc tích lũy được tính theo số các trường hợp mới trong một thời kỳ chia cho số đối tượng có nguy cơ trong quần thể từ đầu của nghiên cứu.
Tổng số trường hợp mới mắc bệnh của một quần thể trong một khoảng thời gian xác định
C I = ----------------------------------------------------------
Tổng số người có nguy cơ mắc bệnh của quần thể đó trong thời gian đó
2. Về tỷ suất mới mắc tích lũy HCC ở bệnh nhân xơ gan và viêm gan B mạn tính tại Trung tâm MEDIC do siêu âm phát hiện, chúng tôi có 15 ca xơ gan và viêm gan mạn có biến chứng HCC ở một nhóm 198 bệnh nhân xơ gan và viêm gan mạn trong 5 năm. (2 bệnh nhân trong năm đầu, 7 bệnh nhân trong năm thứ hai, 3 bệnh nhân trong năm thứ ba, 2 bệnh nhân trong năm thứ tư, và 1 bệnh nhân trong năm thứ năm, trong bài ULTRASOUND DETECTION OF HEPATOCELLULAR CARCINOMA (HCC) ON PATIENTS WITH CIRRHOSIS AND CHRONIC HEPATITIS: A FOLLOW-UP SURVEY FOR 5 YEARS, PHAM THI THANH XUAN, NGUYEN THIEN HUNG, PHAM THI THU THUY, MEDIC Medical Center, HCMC, VIET NAM) [xem dưới đây].
Ung thư tế bào gan nguyên phát qua nội soi ổ bụng.
Vậy tỷ suất mới mắc HCC tích lũy CI của 198 bệnh nhân xơ gan và viêm gan mạn này trong 5 năm chỉ là 15/198=0,075, tức là 7,5%, so với số liệu bài báo từ Lancet Oncology trên là 79,6% ở năm thứ năm (0•796 (95% confidence interval, 0•775—0•816) at 5 years).
Bài báo thứ hai về nguy cơ ung thư gan nguyên phát (HCC) ở viêm gan C từ báo GUT, Jan. 2011 sau đây, cho thấy giao thức khám phát hiện HCC bằng siêu âm và theo dõi giá trị của xét nghiệm alphafetoproteine định kỳ trên bệnh nhân viêm gan Việt nam của trung tâm Y khoa MEDIC là đúng đắn. Chúng ta đã thực hiện protocol này cho bệnh nhân Việt nam hàng ngày kể từ năm 1990.
PHẠM THỊ THANH XUÂN, NGUYỄN THIỆN HÙNG, PHẠM THỊ THU THỦY, PHAN THANH HẢI, MEDIC Medical Center, Ho Chi Minh City
Abstract:
Background: HCC is the most common primary liver cancer, accounting for 80% of primary liver malignant neoplasm, and 85% of HCC occur on patients with cirrhosis . Purpose: Detection of HCC and evaluating risk of HCC among patients with cirrhosis and chronic hepatitis. Methods: Cross-sectional, descriptive and retrospective study. Design: We made a follow-up survey on 198 patients with cirrhosis and chronic hepatitis by the use of ultrasound and alpha-fetoprotein (AFP) dosage every one or two months for 5 years (from October 1993 to October 1998). Results: We detected HCC in 15 patients during this period: 2 patients in the first year, 7 patients in the second year, 3 patients in the third year, 2 patients in the fourth year, and 1 patient in the fifth year. The cumulative incidence of HCC in the five year was 7.5%. The maximum size of lesion was 11 cm in diameter and the minimum one was 4 cm. Most of lesions were in the right lobe of liver and AFP dosage levels were higher than 100ng/ml. Conclusion: Ultrasound examination and AFP dosage are efficacious for detection of HCC in high-risk patients. However, it is necessary to detect HCC in small size to take part in changing patient's prognosis.
Risk estimation for hepatocellular carcinoma in chronic hepatitis B (REACH-B): development and validation of a predictive score, Hwai-I Yang PhD, Prof Man-Fung Yuen MD, Prof Henry Lik-Yuen Chan MD, Prof Kwang-Hyub Han MD, Prof Pei-Jer Chen MD, Do-Young Kim MD, Sang-Hoon Ahn MD, Prof Chien-Jen Chen ScD, Vincent Wai-Sun Wong MD, Wai-Kay Seto MBBS, for the REACH-B Working Group.
The Lancet Oncology, Early Online Publication, 15 April 2011
doi:10.1016/S1470-2045(11)70077-8 Cite or Link Using DOI
Summary
Background: Therapy for chronic hepatitis B reduces the risk of progressing to hepatocellular carcinoma (HCC); however, there is no suitable and accurate means to assess risk. This study aimed to develop and validate a simple scoring system to predict HCC risk in patients with chronic hepatitis B. Methods: The development cohort consisted of 3584 patients without cirrhosis from the community-based Taiwanese REVEAL-HBV study (of whom 131 developed HCC during follow-up), and a validation cohort of 1505 patients from three hospitals in Hong Kong and South Korea (of whom 111 developed HCC during follow-up). We used Cox multivariate proportional hazards model to predict risk of HCC at 3, 5, and 10 years. Variables included in the risk score were sex, age, serum alanine aminotransferase concentration, HBeAg status, and serum HBV DNA level. We calculated the area under receiver operating curve (AUROC) and calibration of predicted and observed HCC risk. Findings: A 17-point risk score was developed, with HCC risk ranging from 0•0% to 23•6% at 3 years, 0•0% to 47•4% at 5 years, and 0•0% to 81•6% at 10 years for patients with the lowest and highest HCC risk, respectively. AUROCs to predict risk were 0•811 (95% confidence interval 0•790—0•831) at 3 years, 0•796 (0•775—0•816) at 5 years, and 0•769 (0•747—0•790) at 10 years in the validation cohort, and 0•902 (0•884—0•918), 0•783 (0•759—0•806), and 0•806 (0•783—0•828), respectively, after exclusion of 277 patients in the validation cohort with cirrhosis. Predicted risk was well calibrated with Kaplan-Meier observed HCC risk. Interpretation: A simple-to-use risk score that uses baseline clinical variables was developed and validated. The score accurately estimates the risk of developing HCC at 3, 5, and 10 years in patients with chronic hepatitis B. Clinicians can use this score to assess risk of HCC in patients with chronic hepatitis B and subsequently make evidence-based decisions about their clinical management.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét