Tĩnh mạch Cửa ngoài gan hiếm khi có biến dị (variant). Tĩnh mạch Cửa nhận tĩnh mạch Vị T, và có thể cũng nhận tm Lách phụ, nhánh Hoành dưới, nhánh Tá Tụy, tm Phổi hay tm Vị Tá P.
Dây chằng gan tá cấu tạo bờ trước của lỗ Winslow và bọc lấy ống mật chủ, động mạch Gan và tĩnh mạch Cửa. Thường động mạch Gan ở bên T ống mật chủ, và tĩnh mạch Cửa ở phía sau và giữa OMC và đgm Gan (Marois và cs).
Rất hiếm khi tm Cửa nằm trước OMC và đgm Gan (Marks, 1/386 trường hợp phẫu thuật bộ ba Cửa (portal triad).
Các nhánh bên của tm Cửa lại có biến dị. Các tm Lách phụ được báo cáo nhiều. Tm Lách có thể thông nối với tm Thận T hoặc tm Mạc treo tràng trên. Tm Mạc treo tràng trên có khi mở vào tm Thận T.
Có ít nhất 2 báo cáo trường hợp không có tm Cửa. Cũng có khi có 2 tm Cửa.
(Từ Portal Vein, Ronald A. Bergman, Adel K. Afifi, Ryosuke Miyauchi).
TRONG GAN
Nhưng với MDCT, trong gan, tĩnh mạch Cửa có nhiều biến dị khi phân nhánh như trifurcation, right anterior portal branch xuất phát từ left portal vein, và right posterior portal branch bắt nguồn từ main portal vein. Teo (agenesis) nhánh P hoặc nhánh T tĩnh mạch Cửa là biến dị bẩm sinh thường gặp nhất.
Trong Portal vein variations: clinical implications and frequencies in routine abdominal multidetector CT, Zafer Koç, Levent Oğuzkurt, Şerife Ulusan, Diagn Interv Radiol 2007; 13:76-80, khảo sát hồi cứu với 1384 người (721 nam, 663 nữ).
Các tác giả tìm thấy tĩnh mạch Cửa trong gan phân nhánh bình thường ở 1005 người (72,6%). Tm Cửa biến dị và bất thường ở 379 người (27,4%).
Phân nhánh của tm Cửa chính (main PV) bình thường ở 1087 người (78,5%).
Biến dị phân nhánh của tm Cửa chính xảy ra ở 297 người (21,5%), thường gặp nhất là trifucation (n=154, 11,1%) và right posterior PV là nhánh đầu tiên của main PV (n = 134, 9,7%).
Biến dị của right PV ở 42 trường hợp (3,9%) của 1087 người loại 1 giải phẫu học.
Biến dị của nguyên ủy tĩnh mạch Cửa phân thùy đi qua giới hạn liên thùy (interlobar boundary) là 55 ca (4%) của 1384 người.
Như vậy tần suất (prevalence) của biến dị tĩnh mạch Cửa trong gan là cao khi khảo sát với MDCT.
MẮC PHẢI
Khi có cao áp tĩnh mạch Cửa, siêu âm có thể phát hiện tĩnh mạch Cửa bị hang hóa (cavernous transformation) và xuất hiện các mạch bàng hệ.
Siêu âm color Doppler cũng có thể phát hiện phình hệ tĩnh mạch Cửa cũng như huyết khối tĩnh mạch Cửa và hơi trong đường mật. Nhưng CT là phương pháp đánh giá tốt nhất khí trong tĩnh mạch Cửa và phân biệt với hơi trong đường mật.Xem Phình tĩnh mạch Cửa trong Splanchnic Vessel Aneurysms, Nguyễn Thiện Hùng và cs 2009
và Extrahepatic Portal Vein Aneurysm
Tuesday, December 02, 2008
EXTRAHEPATIC PORTAL VEIN ANEURYSM, NGUYỄN THIỆN HÙNG - VÕ NGUYỄN THÀNH NHÂN - PHAN THANH HẢI, Trung tâm Y khoa MEDIC HÒA HẢO -Thành phố Hồ Chí Minh
An asymptomatic 47-year-old man presented with anemia, dark stool for 1 year without abdominal pain and no underlying disease. The physical examination and findings of routine blood and urine tests were unremarkable. Abdominal sonography showed an anechoic oval mass with smoke-like echo inside. This 51x33mm lesion was nearby the hepatic hilum. Color Doppler sonography showed complete filling of the lesion with a yin-yang pattern. Duplex Doppler sonography presented an abnormal monophasic waveform, with a reversal flow. No portal vein trunk was identified. MSCT Angio confirmed an extrahepatic portal vein aneurysm at the confluence of the superior mesenteric and splenic veins.
Portal vein aneurysm is an uncommon finding which may appear intra or extrahepatic site. Two major causes, congenital and acquired, have been proposed.
In our patient, because it was an incidental asymptomatic finding having no association with liver disease or portal hypertension, a follow-up study was proposed.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét