TÓM TẮT:
MỤC TIÊU. Hội chứng ống cổ tay (carpal tunnel syndrome, CTS) là một trong những bệnh lí bẫy thần kinh (entrapment mononeuropathies) ngoại biên phổ biến nhất. Mục đích nghiên cứu là để đánh giá tương quan tiềm tàng giữa tăng tưới máu trong dây thần kinh, siết mạc giữ gân gấp (flexor retinaculum bowing), và tiết diện dây thần kinh giữa và mức độ nghiêm trọng của CTS trong các trường hợp được khảo sát dẫn truyền thần kinh xác nhận.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP. Gồm 60 bệnh nhân với triệu chứng kinh điển hay có thể xảy ra các triệu chứng của CTS trong nghiên cứu. Một nhóm chứng gồm 27 tình nguyện viên lành mạnh chưa bao giờ được chẩn đoán CTS hoặc có bất kỳ triệu chứng của CTS được chọn trong số nhân viên của viện. Tất cả bệnh nhân có triệu chứng được kiểm tra ban đầu bởi một bác sĩ phẫu thuật bàn tay và sau đó khám siêu âm và điện sinh lí.
KẾT QUẢ. Gồm 90 cổ tay (ở 60 bệnh nhân) trong nghiên cứu. Hai mươi tám ca (31,1%) có CTS nhẹ, ca 33 bệnh trung bình và 29 ca có bệnh nặng. Chúng tôi phát hiện thấy tương quan đáng kể giữa tăng tưới máu thần kinh giữa và mức độ nặng của CTS (p = 0,01, hồi quy logistic) cho CTS trung bình và (p = 0,04) ở bệnh nặng. Chúng tôi cũng tìm thấy tương quan đáng kể trong flexor retinaculum bowing và tiết diện dây thần kinh giữa với sự gia tăng mức độ nặng của CTS (p <0,001 và < 0,008; test chi-bình phương và phân tích đa biến).
KẾT LUẬN. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy độ nặng của CTS tương quan mạnh với những phát hiện siêu âm Doppler màu, và kỹ thuật này có thể là một công cụ bổ sung đáng tin cậy trong khám hội chứng ống cổ tay (CTS) .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét