Vo Mai Khanh, Nguyen Thien Hung, MEDIC MEDICAL CENTER, HCMC, Vietnam
Purpose: The aim of the present study was to evaluate the feasibility of ARFI-measurements in combining of VTI in the thyroid nodule.
Methods and materials: All patients underwent conventional ultrasound, ARFI-imaging and cytological assessment. ARFI-imaging (VTI and VTQ technology) were performed with 9L4 probe, using Siemens (ACUSON S2000) B-mode-ARFI combination transducer.
Results and discussions: 130 nodules were available for analysis. 103 nodules were benign on cytology, 20 nodules were malignant ( papillary carcinomas), and 7 follicular lesions. The average velocity of ARFI-imaging in benign and malignant thyroid nodules was of 2.4 m/s, and of 3.2 m/s, respectively. A sensitivity of 79.4% and specificity of 53.7% of ARFI-imaging could be achieved using a cut-off of 2.16 m/s (area under ROC curve is 0.731, p < 0.0001).
Conclusions: ARFI can be performed in thyroid nodule with reliable results. ARFI might be the reference criteria for differentiation of benign and malignant thyroid nodules.
TẠO HÌNH XUNG LỰC BỨC XẠ ÂM ARFI CÁC NHÂN GIÁP
Purpose: The aim of the present study was to evaluate the feasibility of ARFI-measurements in combining of VTI in the thyroid nodule.
Methods and materials: All patients underwent conventional ultrasound, ARFI-imaging and cytological assessment. ARFI-imaging (VTI and VTQ technology) were performed with 9L4 probe, using Siemens (ACUSON S2000) B-mode-ARFI combination transducer.
Results and discussions: 130 nodules were available for analysis. 103 nodules were benign on cytology, 20 nodules were malignant ( papillary carcinomas), and 7 follicular lesions. The average velocity of ARFI-imaging in benign and malignant thyroid nodules was of 2.4 m/s, and of 3.2 m/s, respectively. A sensitivity of 79.4% and specificity of 53.7% of ARFI-imaging could be achieved using a cut-off of 2.16 m/s (area under ROC curve is 0.731, p < 0.0001).
Conclusions: ARFI can be performed in thyroid nodule with reliable results. ARFI might be the reference criteria for differentiation of benign and malignant thyroid nodules.
TẠO HÌNH XUNG LỰC BỨC XẠ ÂM ARFI CÁC NHÂN GIÁP
VÕ MAI KHANH-NGUYỄN THIỆN HÙNG Trung tâm Y khoa MEDIC HOÀ HẢO, Thành phố Hồ Chí Minh.
TÓM TẮT:
Mục tiêu: khảo sát các đặc điểm của kỹ thuật tạo hình xung lực bức xạ âm ARFI trong chẩn đoán phân biệt hạt giáp lành – ác.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
+Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
+130 hạt giáp được thực hiện siêu âm quy ước B-mode và tạo hình xung bức xạ âm ARFI bằng máy siêu âm Acuson Siemens S2000 tại Medic từ tháng 08/2011 đến tháng 10/2012. Tất cả hạt giáp đều được thực hiện FNAC sau đó để làm giá trị đối chiếu.
+Xử lý số liệu: phần mềm Medcalc.
Kết quả: Khảo sát 130 hạt giáp gồm 103 hạt lành tính, 20 carcinôm tuyến giáp dạng nhú và 7 follicular lesion. Giá trị VTQ trung bình của tất cả các hạt giáp nói chung, hạt giáp lành và ác tính lần lượt là 2,4m/s (range 0,8 – 9,22m/s); 2,15m/s (range 0,8 – 4,04m/s) và
3,2m/s (range 0,9 – 9,22m/s). Tại điểm cắt 2,16m/s, độ nhạy và độ chuyên của ARFI trong phân biệt hạt giáp lành tính và ác tính là 79,4% và 53,7% (diện tích dưới đường cong ROC là 0,731). Độ chênh lệch giá trị VTQ giữa mô giáp bình thường và hạt giáp (lành, ác) có độ nhạy là 79,5% và độ chuyên là 51% tại điểm cắt 0,63 (diện tích dưới đường cong ROC là 0,72).
Kết luận: VTQ của hạt giáp và độ chênh lệch giá trị VTQ giữa mô giáp bình thường và hạt giáp có thể giúp ích trong chẩn đoán phân biệt hạt giáp lành tính và ác tính. Có thể phối hợp với VTI để tăng thêm giá trị chẩn đoán.
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Siêu âm đàn hồi ARFI là kỹ thuật mới để đánh giá định lượng độ cứng hay độ đàn hồi mô (gan, giáp, vú…) không xâm lấn. Không cần phải ấn khám bằng đầu dò siêu âm (như FibroScan hay RTE) nên kết quả không tuỳ thuộc người khám và có tính lặp lại.
Hieän nay, coù
vaøi coâng boá cuûa caùc taùc giaû veà kyõ thuaät ARFI ôû haït giaùp, chuû yeáu
laø ño toác ñoä ñaøn hoài ARFI (Virtual Touch Tissue Quantification: VTQ) vaø
caùc keát quaû, nhaän ñònh coøn nhieàu khaùc bieät. Nghieân cöùu naøy cuõng
döïa treân chæ soá VTQ (ñònh löôïng) cuûa haït giaùp, keát hôïp vôùi VTI
(Virtual Touch Tissue Imaging) (ñònh tính).
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
+Khảo sát giá trị VTQ (định lượng) trên mô giáp bình thường, hạt giáp lành tính và ác tính.
Khảo sát mối liên hệ giữa VTQ và hạt giáp lành – ác.
+Khảo sát VTI (định tính) trên hạt giáp lành tính và ác tính.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
+Phương pháp: mô tả cắt ngang.
+Đối tượng: 130 hạt giáp được thực hiện siêu âm quy ước và tạo hình xung bức xạ âm ARFI bằng máy siêu âm Acuson Siemens S2000 tại Medic từ tháng 08/2011 đến tháng 10/2012. Tất cả hạt giáp được thực hiện thủ thuật FNAC sau đó để đối chiếu.
+Xử lý số liệu: phần mềm Medcalc.
KẾT QUẢ:
+ Đặc điểm nhóm nghiên cứu:
+Tuổi: trung
bình 45 (16 – 69 tuổi)
+Kích thước hạt giáp:
trung bình 14mm (5 – 47mm)
+ Giá trị định lượng VTQ:
@ Trung bình của mô giáp
lành: 1,51m/s (0,84 – 3m/s)
@Trung bình của hạt giáp lành tính: 2,15m/s (0,8
– 4,04m/s)
@Trung bình của hạt giáp ác tính: 3,21m/s (0,9 –
9,22m/s)
+ Mối liên hệ giữa độ nhạy và độ chuyên của VTQ và hạt giáp lành tính – ác tính được thể hiện bằng biểu đồ đường cong ROC với diện tích dưới đường cong (AUC) là 0,731 (p <
0,0001) được đánh giá là khá tốt. Tương tự với độ chênh lệch VTQ giữa mô giáp bình thường và hạt giáp (lành, ác) có AUC là
0,72 (p < 0,0001).
+ Đặc điểm định tính VTI:
BÀN LUẬN:
- Giá trị VTQ trung bình thấp nhất của mô giáp bình thường, cao hơn ở hạt giáp lành tính và cao nhất ở hạt giáp ác tính. Điều này là phù hợp vì các hạt giáp ác tính có mật độ cứng hơn hạt giáp lành tính.
- Tuy nhiên, giá trị VTQ giữa các nhóm này dao động khá rộng và có sự chồng lấp lên nhau. Một hạt giáp ác tính vẫn có thể có giá trị VTQ nằm trong phạm vi của mô giáp bình thường hoặc hạt giáp lành tính và ngược lại. Điều này lý giải được nguyên nhân của độ nhạy và độ chuyên của VTQ trong phân biệt hạt giáp lành tính – ác tính chỉ ở mức khá và diện tích dưới đường cong AUC chỉ là 0,731. Có thể bàn luận kết quả này như sau:
+ Hạt giáp ác tính không hoàn toàn là một khối cứng đồng nhất, bên trong vẫn có những vùng hoại tử, hóa nang.
Tương tự, hạt giáp lành tính có thành phần đặc và nang,
thậm chí có vôi hóa lớn,...
+ Vùng ROI (region of interest) của máy Acuson Siemens S2000 là khá lớn [5x6 cm] và không thể điều chỉnh được. Một số hạt giáp nhỏ hơn 10mm nằm lọt hoàn
toàn trong vùng ROI, do đó không thể kiểm soát được cả mô giáp lành cũng được đưa vào đo
xung bức xạ âm của vùng. Hiện nay, hãng Siemens đang đưa vào giới thiệu version S3000 với vùng ROI được thu nhỏ lại nhằm tăng độ tập trung vào mô cần khảo sát.
Mặc dù vậy, với AUC là
0,731, VTQ trong ARFI được xem là một phương pháp giúp ích trong việc chẩn đoán phân biệt hạt giáp
lành tính – ác tính.
@Một số trường hợp hạt giáp trên nền bệnh lý tuyến giáp lan tỏa (Basedow, viêm giáp Hashimoto,...), bệnh nhân béo phì (platysma dày), hạt giáp ở vị trí sâu
hoặc ngay dưới da có thể sẽ ảnh hưởng đến giá trị của VTQ, do
đó nghiên cứu thực hiện việc đo VTQ của mô giáp nền của thùy đối bên ở cùng độ sâu và lấy hiệu số giữa VTQ của hạt giáp và
mô giáp nền để khảo sát mối liên hệ. Với AUC là 0,72, ta thấy hiệu số này cũng có giá trị khá tốt trong chẩn đoán phân biệt lành – ác của hạt giáp.
@VTI là một biến số định tính nên việc khảo sát giá trị này khá phụ thuộc vào người làm siêu âm (operator dependant). Với việc phân làm bốn nhóm hình ảnh VTI (dark, iso, bright, mixed), kết quả nghiên cứu cho thấy các hạt giáp ác tính có hình ảnh cứng (dark) trội hơn, và các hạt giáp lành tính có hình ảnh mềm hoặc hỗn hợp (bright hoặc mixed).
@VTI có thể xem như một dạng biểu hiện khác của siêu âm B-mode. Tuy nhiên, VTI với bản đồ màu (color map) được cho là dễ phân biệt độ cứng-mềm hơn (xanh dương, xanh lá – vàng, đỏ) so với siêu âm thang xám (xám – đen). Đặc điểm này giúp ích trong những trường hợp cần phân biệt các khối dạng dịch không thuần nhất với khối đặc, hoặc khối đặc có hồi âm rất kém trên B-mode với một khối dạng dịch thật sự. Ngoài ra, đặc điểm trên còn giúp chọn lựa vị trí thực hiện chọc hút tế bào bằng kim nhỏ trong những trường hợp khối lớn và có bản chất phức tạp.
KẾT LUẬN:
Tóm lại, qua nghiên cứu này, kỹ thuật tạo hình xung lực bức xạ âm ARFI có thể giúp phân biệt hạt giáp lành tính – ác tính. Tuy nhiên,
vì đây là kỹ thuật mới và chưa được FDA chuẩn y, với độ nhạy và độ chuyên ở mức khá, nên chỉ xem như là tiêu chuẩn hỗ trợ trong chẩn đoán (tương tự Doppler màu). Nên kết hợp VTQ và VTI để có kết quả tốt hơn. Với những cải tiến mới trong tương lai, ARFI có thể được đưa vào kết quả tường trình siêu âm (sonographic feature) như là một đặc điểm tham khảo và hỗ trợ chẩn đoán tích cực.
VTQ một trường hợp tổn thương trung gian (follicular lesion), Vs= 2,99 m/s.
Hình FNAC một trường hợp tổn thương trung gian.
Tốc độ đàn hồi ARFI vượt ngưỡng máy (Vs=X,XX m/s) một trường hợp carcinom nhú.
Hình FNAC một trường hợp carcinom nhú.
1. Mireen Friedrich-Rust, Olga Romenski, Gesine Meyer, Nina Dauth, Katharina Holzer, Frank Grünwald, Susanne Kriener, Eva Herrmann, Stefan Zeuzem, Joerg Bojunga: Acoustic Radiation Force Impulse-Imaging for the evaluation of the thyroid gland: A limited patient feasibility study, Ultrasonics, Volume 52, Issue 1, January 2012, Pages 69–74
2. Jiying Gu, Lianfang Du, Min
Bai, Huili Chen, Xiao Jia, Jing Zhao, and Xuemei Zhang: Preliminary
Study on the Diagnostic Value of Acoustic Radiation Force Impulse Technology
for Differentiating Between Benign and Malignant Thyroid Nodules, JUM
May 1, 2012 vol. 31 no. 5: 763-771
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét