Objectives—
The aims of this retrospective study were to determine the
accuracy of transvaginal sonography for diagnosing cystitis glandularis in
women and to describe the sonographic features of cystitis glandularis masses
in confirmed cases.
Methods—
For 90 patients with clinically or sonographically suspected
cystitis glandularis, we retrospectively reviewed the imaging files. Twenty-one
cases were confirmed by histopathologic examination. All patients had undergone
transvaginal sonography to evaluate bladder masses in a standardized manner no
more than 1 week before histopathologic examination. Findings from preoperative
transvaginal sonography of the masses were described and compared with
histopathologic findings.
Results—
Cystitis glandularis masses were correctly identified on
transvaginal sonography in 15 of 21 cases (71.4%), whereas 6 of 21 (28.6%) had
negative preoperative sonographic findings. The sensitivity, specificity, and
positive and negative predictive values of transvaginal sonography for diagnosing
cystitis glandularis were 71.4% (15 of 21), 92.8% (64 of 69), 75.0% (15 of 20),
and 91.4% (64 of 70), respectively, and the total accuracy was 87.8% (79 of
90).
Conclusions—
Detection of cystitis glandularis masses by transvaginal
sonography depends on the mucosal surface roughness, bladder wall thickness,
outer bladder wall continuity, mixed echoes, sparse vessels, and mobility of
the cervix. Transvaginal sonography is a promising modality for identifying
cystitis glandularis masses.
o
© 2012 by the American
Institute of Ultrasound in Medicine
TÓM TẮT (BS THỤC QUYÊN dịch)
GHI CHÚ
Viêm bọng đái dạng nang tuyến có thể ăn sâu vào thành bọng đái; bệnh này hiếm, thường thấy ở tam giác và vùng cổ bọng đái, đôi khi trông giống như bướu hạt (Ngô Gia Hy, Từ điển Niệu học Việt Anh Pháp giảng nghĩa, Nxb Y học, 1992)
TÓM TẮT (BS THỤC QUYÊN dịch)
-
Mục tiêu: Nghiên cứu hồi cứu để
xác định độ chính xác của siêu âm ngã âm đạo ( TVS) trong chẩn đoán viêm bàng
quang dạng tuyến (CG) ở phụ nữ và để mô tả bản chất siêu âm của những khối CG
trong những ca đã được xác minh.
-
Phương pháp: 90 bệnh nhân có lâm sàng
hay dấu siêu âm gợi ý CG được hồi cứu những hình ảnh ghi lại. 21 ca được xác định
bằng mô bệnh học.Tất cả những bệnh nhân đã được làm TVS để đánh giá những khối
ở bàng quang theo tiêu chuẩn, thời điểm không quá 1 tuần trước khi đánh giá mô
bệnh học. Những dấu hiệu từ TVS trước phẫu thuật đã được mô tả và so sánh với
những dấu hiêu mô bệnh học.
-
Kết quả: Những khối CG đã được nhận
diện chính xác bằng TVS ở 15 trong 21 trường hợp ( 71,4%), âm tính 6 trong 21 ca ( 28,6%). Độ nhạy, đặc hiệu, giá
trị dự đoán dương tính, giá trị dự đoán âm tính và độ chính xác của TVS cho chẩn
đoán CG lần lượt là 71,4 % (15/21), 92.8% (64/69), 75% (15/20) và 91,4% (64/70)
và 87,8% ( 79/90).
-
Kết luận: Phát hiện CG bằng TVS phụ
thuộc sự gồ ghề của bề mặt niêm mạc, độ dày thành bàng quang, sự liên tục với
thành bàng quang bên ngoài, độ hồi âm hỗn hợp, mạch máu rải rác và chuyển động của
cổ tử cung. TVS là phương thức hứa hẹn cho phát hiện những khối CG.
GHI CHÚ
Viêm bọng đái dạng nang tuyến có thể ăn sâu vào thành bọng đái; bệnh này hiếm, thường thấy ở tam giác và vùng cổ bọng đái, đôi khi trông giống như bướu hạt (Ngô Gia Hy, Từ điển Niệu học Việt Anh Pháp giảng nghĩa, Nxb Y học, 1992)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét