To the Editor,
Superficial trigeminal nerve blocks are performed by injecting
local anesthetic in close proximity to the three individual terminal superficial
branches of the trigeminal nerve divisions; i.e., supraorbital (of ophthalmic
nerve; V1 division), infraorbital (of maxillary nerve; V2 division), and mental
(sensory terminal branch of mandibular nerve; V3 division). Each nerve is
anatomically close to its respective foramen (Fig. 1); thus nerve localization
for this block ideally relies on a landmark-based approach using palpation of the foramina. However, occasionally it can be challenging
to identify each foramen by relying on palpation alone. In these cases, many
experts ‘‘search’’ for the foramina by gently probing with a small-gauge needle.
Ultrasound (US) imaging is a safe simple non-invasive modality
through which soft tissues and nerve structures can be visualized and identified
when combined with a thorough knowledge of regional anatomy. However, there is
limited information on the use of US for the identification of bony structures. Definitive
identification of intraosseous landmarks, e.g., a tubercle, foramen, or notch around
or through which the nerve travels, may be particularly important when, due to
its small size and/or imaging artefacts, the target nerve of the block is
unidentifiable with US. Sonographically, bone appears as a hyperechoic linear
edge (white line) with an underlying anechoic (dark) shadow. Any disruption
within the hyperechoic line may indicate either an anatomical defect or a discontinuity
in the bone, such as a foramen.
Using the above concept of discontinuity in the bone, we describe
here a simple US-guided approach to locate the three important landmark
foramina for superficial trigeminal nerve block. Using a high-frequency linear
transducer (e.g., SLA 6–13 MHz 25 mm footprint
hockeystick probe, MicroMaxx,
Sonosite, Bothell, WA, USA), the foramina can be identified dynamically by
subtle movement of the probe position after its placement in the usual vicinity
of the foramina in order to capture the accompanying break in the linear
hyperechogenicity of the bony surface.
All foramina typically lie in the corresponding sagittal plane
on each side of the face (Fig. 1). In adults, all three foramina are located
approximately 2.5 cm lateral to the midfacial line passing through the pupil. To
localize the upraorbital notch (foramen), the probe is positioned transversely
above the roof of the orbital rim and in alignment with the pupil, and the bone
is scanned slowly in a cephalad-to-caudad direction (Fig. 2).
The infraorbital foramen is generally located about 1 cm below the middle of
the lower orbital margin (inferior rim of orbit) and can be readily located by
scanning in a sagittal plane from medial to lateral along the lower orbital
margin. In children, the infraorbital foramen can often be palpated easily, with
the exception of neonates due to their developing facial configuration. For
pediatrics, a simple mathematical formula has been developed (distance from the
midline = 21 mm + 0.5 X age [in years]) and may be useful when localizing the
foramen either blindly or with US. Finally, the mental foramen, which lies
inferior to the outer lip at the level of the second premolar, midway between
the upper and lower borders of the mandible, is localized using a transverse
plane and scanning in a cephalad direction from the inferior border of the
mandible. During this dynamic scanning, the image of the bony surface will change
from a definite linear border to a border with a hypoechoic break indicating the
foramen. In addition, the identity of each orifice can be verified by
illumination of their contained blood vessels using colour Doppler.
The images in Fig. 2 were obtained using colour Doppler and highlight
the identity of the supra and infraorbital arteries.
Although the mental branch of the inferior alveolar artery exits
from the mental foramen, it has been difficult to illuminate this artery in our
experience, perhaps due to the artery’s relatively small size. With the
aforementioned imaging techniques, clear views of the three distinct openings of the respective foramina can be obtained with ease,
thus supporting a potential role for imaging to facilitate trigeminal nerve
blocks.
Further study is needed to examine the merit of using US to identify foramen as anatomical landmarks for nerve localization when performing superficial trigeminal nerve blocks. This letter serves to remind the reader that US is not only useful for soft tissue and nerve structure recognition, but it can also be valuable for identifying bony structures in situations where nerve visibility is poor or unattainable.
Further study is needed to examine the merit of using US to identify foramen as anatomical landmarks for nerve localization when performing superficial trigeminal nerve blocks. This letter serves to remind the reader that US is not only useful for soft tissue and nerve structure recognition, but it can also be valuable for identifying bony structures in situations where nerve visibility is poor or unattainable.
------------------------------------------
Gởi Ban Biên tập,
Phong bế phần nông dây thần kinh sinh ba được thực hiện bằng
cách tiêm thuốc tê cục bộ gần ba nhánh nông tận cùng của dây thần kinh sinh ba,
tức là, nhánh trên hốc mắt [supraorbital] (của dây thần kinh mắt, thần kinh V1),
dưới hốc mắt (của dây thần kinh hàm trên, thần kinh V2), và nhánh cằm [mental] (nhánh
tận cảm giác của dây thần kinh hàm dưới; thần kinh V3). Mỗi dây thần kinh ở gần
lỗ ra tương ứng (Hình 1), do đó định vị thần kinh để phong bế dựa vào mốc tiếp
cận bằng cách sờ tìm các lỗ thoát [foramina]. Tuy nhiên, đôi khi xác định mỗi lỗ
thoát chỉ bằng cách sờ có thể là một thử
thách. Trong những trường hợp này, nhiều chuyên gia "truy tìm " các
lỗ thoát bằng cách dò tìm nhẹ nhàng bằng một cây kim nhỏ.
Tạo hình siêu âm (
Sử dụng khái niệm trên về gián đoạn của xương, chúng tôi xin
mô tả ở đây một phương pháp tiếp cận đơn giản dưới siêu âm dẫn đường để xác
định vị trí ba mốc quan trọng của foramina cho việc phong bế nông dây thần kinh
sinh ba. Dùng đầu dò linear tần số cao (ví dụ, với đầu dò SLA 6-13 MHz 25 mm footprint
hockeystick, MicroMaxx, Sonosite, Bothell,
WA, Mỹ), lỗ thoát có thể được xác định cơ động bởi chuyển động của các
vị trí đầu dò sau khi đặt đầu dò trong vùng thường gặp của foramina để tìm chỗ gián
đoạn của bề mặt xương.
Tất cả foramina thường nằm trong mặt phẳng dọc tương ứng trên mỗi bên của khuôn mặt (Hình 1). Ở người lớn, cả 3 foramina ở khoảng 2,5 cm bên ngoài đường giữa mặt [midfacial] đi qua đồng tử. Để định vị lỗ trên hốc mắt, đầu dò được đặt nằm ngang trên trần vành hốc mắt và ngang với đồng tử, và xương sẽ được quét từ từ trong hướng từ trên xuống dưới (Hình 2). Lỗ dưới hốc mắt thường ở khoảng 1 cm bên dưới điểm giữa vành hốc mắt dưới và có thể dễ định vị bằng cách quét theo mặt phẳng dọc từ trong ra ngoài theo viền hốc mắt dưới.
Hình 2: Hình siêu âm màu Doppler với sơ đồ kỹ thuật quét đầu dò, qua đó quét theo hướng từ vị trí A đến B. (Trên) Lỗ trên hốc mắt và động mạch; (giữa) lỗ dưới hốc mắt và động mạch; (dưới) lỗ cằm.
Ở trẻ em, lỗ dưới hốc mắt thường sờ được dễ dàng, với ngoại
lệ của trẻ sơ sinh do cấu hình phát triển của khuôn mặt.
Đối với nhi khoa, một công thức toán học đơn giản đã được
phát triển (khoảng cách từ đường giữa = 21 mm + 0,5 X tuổi [theo năm tuổi]), có thể có ích khi định vị lỗ cả khi mù hoặc với siêu
âm. Cuối cùng, lỗ cằm, nằm thấp hơn môi ngoài ngang với răng tiền hàm thứ hai, nằm
giữa bờ trên và dưới của hàm dưới, được định vị bằng cách dùng một mặt phẳng
ngang và quét theo một hướng từ trên xuống bờ dưới xương hàm dưới. Trong suốt
quá trình quét động, hình ảnh của bề mặt xương sẽ thay đổi từ một đường viền rõ
ràng đến một đường viền có chỗ giảm âm là lỗ cẳm. Ngoài ra, việc xác định mỗi
lỗ có thể được kiểm chứng bằng cách sử dụng siêu âm Doppler màu tìm mạch máu.
Các hình ảnh trong hình 2 thu được bằng cách sử dụng siêu âm
Doppler màu và làm nổi bật các động mạch
trên và dưới hốc mắt.
Mặc dù nhánh cằm của động mạch ổ răng dưới đi ra từ lỗ cằm, theo
kinh nghiệm của chúng tôi, khó tìm được động mạch này, có lẽ do kích thước
tương đối nhỏ của động mạch. Với các kỹ thuật tạo hình đã nói ở trên, rất dễ quan
sát rõ 3 lỗ thoát tương ứng, do đó tạo hình siêu âm có vai trò tiềm năng hỗ trợ
cho việc phong bế dây thần kinh sinh ba. Cần nghiên cứu sâu hơn để kiểm tra khả
năng sử dụng siêu âm để xác định các lỗ thoát là mốc giải phẫu định vị thần
kinh khi thực hiện phong bế nông dây thần kinh sinh ba. Thư này nhằm nhắc nhở bạn
đọc rằng siêu âm không chỉ hữu ích cho khảo sát mô mềm và dây thần kinh, mà còn
có giá trị để xác định cấu trúc xương trong các tình huống không thể hiển thị
rõ thần kinh hoặc không thể quan sát được.
References
1. Suresh S, Voronov P, Curran J. Infraorbital nerve block
in children: a computerized tomographic measurement of the location of the
infraorbital foramen. Reg Anesth Pain Med 2006; 31: 211–4.
2. Voronov P, Suresh S. Head and neck blocks in children. Curr
Opin Anaesthesiol 2008; 21: 317–22.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét