Siêu âm đàn hồi ARFI và siêu âm thường quy chẩn
đoán phân biệt tổn thương đặc ở phổi
Bs Lê Thanh Liêm, Bs Nguyễn Thiện Hùng, Bs Phan Thanh
Hải
Trung Tâm Y Khoa Medic, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Mục đích
Sử dụng kỹ thuật
tạo hình xung lực bức xạ âm (ARFI - Acoustic Radiation Force Impulse Imaging) để
khảo sát các tổn thương đặc phổi ở ngoại vi, kết hợp với siêu âm B-mode và
Doppler để đánh giá khả năng của kỹ thuật ARFI trong chẩn đoán phân biệt các tổn
thương này.
Đối tượng và phương pháp
Tổng cộng có 28
bệnh nhân tại Trung tâm Y khoa Medic từ tháng 10 năm 2008 đến tháng 12 năm
2012, trong đó có 21 bệnh nhân nam, tuổi từ 18 đến 79. 16 trường hợp viêm phổi
thùy (57,1%), 6 trường hợp xẹp phổi (21,4%), 4 trường hợp ung thư phế quản
(14,2%), 2 trường hợp lymphoma di căn phổi (7,1%). 6 trường hợp được làm siêu
âm đàn hồi ARFI, bao gồm 3 trường hợp viêm phổi thùy và 3 trường hợp xẹp phổi.
Mỗi trường hợp được đo ARFI (VTQ) 5 lần. Tất cả các trường hợp đã được chụp
X-Quang phổi, xét nghiệm. Chụp cắt lớp vi tính đã được sử dụng trong các trường
hợp chẩn đoán không rõ ràng (10 trường hợp, 35,7%). Phần mềm thống kê Medcalc
được sử dụng để so sánh giá trị ARFI (V = m / giây) giữa hai nhóm.
Kết quả
16 trường hợp
viêm phổi thùy, 9 trường hợp ở thùy dưới của phổi (87,5%), có hình tam giác
(94%), bờ đều (68,7%), đồng phản âm với mô gan (25%), có khí ảnh nội phế quản
(94%), có hình ảnh cây mạch máu (56%), phổ 3 pha kháng lực cao trên siêu âm
Doppler (7/9 trường hợp). 6 trường hợp xẹp phổi, thường có hình tam giác (100%),
bờ đều (83,3%), tăng âm (100%), cây mạch máu (2/6 trường hợp), phổ Doppler 3
pha kháng lực cao (2/2 ca), khí ảnh nội phế quản (50%). 4 trường hợp ung thư phế
quản, thường có hình bầu dục (75%), bờ không đều (75%), giảm âm (100%), không
có khí ảnh nội phế quản, có mạch máu đơn lẻ (4/4 trường hợp), phổ 1 pha kháng lực
thấp (3/4 trường hợp). Lymphoma có hình tròn hay oval, phản âm kém giống nang
và mạch máu đơn lẻ, không có khí ảnh nội phế quản. Vận tốc sóng biến dạng của
viêm phổi thùy từ 2,06 đến 4,02 m/giây (trung bình=3,11 ± 0,99 m/giây) và của xẹp
phổi từ 0,94 đến 1,93 m/giây (trung bình=1,52 ± 0,46 m/giây). Có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm với t = 2,896 (p = 0.034). Vận tốc sóng biến
dạng của viêm phổi thùy cao hơn (cứng hơn)
vận tốc sóng biến dạng của xẹp phổi.
Kết luận
Đây là một
nghiên cứu sơ bộ về siêu âm đàn hồi ARFI trong chẩn đoán phân biệt tổn thương đặc
phổi ở ngoại vi, kết hợp với siêu âm B-mode và Doppler. Kết quả ban đầu cho thấy
vận tốc sóng biến dạng ARFI của viêm phổi thùy cao hơn (cứng hơn) vận tốc sóng biến dạng của xẹp phổi.
Trong
tương lai, cần nghiên cứu với số lượng lớn để xác nhận khả năng của kỹ thuật
này và ứng dụng trong thực hành lâm sàng.
Tổng
quan
Siêu âm phổi đã được biết
đến từ lâu và có nhiều nghiên cứu và sách giáo khoa trên thế giới. Tuy nhiên,
trong thực tế siêu âm ít được sử dụng trong chẩn đoán bệnh lý phổi, ngoại trừ
chẩn đoán dịch màng phổi.
Viêm phổi thùy, xẹp phổi
và u phổi là 3 bệnh lý ở phổi thường gặp và biểu hiện trên X-Quang là đám mờ với
nét đặc trưng riêng, tuy nhiên nhiều trường hợp không thể phân biệt được rõ ràng.
Trong trường hợp xẹp thùy phổi do tràn dịch màng phổi, X-Quang khó phát hiện do
chồng lấp với hình mờ của dịch.
Siêu âm phổi chỉ thấy tổn
thương ngoại vi phổi, nhưng khi thấy thì cung cấp rất nhiều thông tin về đặc điểm
của tổn thương và có khi chấn đoán chính xác bản chất tổn thương. Trong viêm phổi
thùy đã điều trị khỏi, hình ảnh tổn thương
phổi trên siêu âm mất đi trước khi mất trên X Quang.
Siêu âm Doppler màu
cung cấp hình ảnh phân bố mạch máu trong tổn thương, Doppler phổ giúp phân biệt
nguồn gốc mạch máu. Theo đó, phổ 3 pha kháng lực cao là đặc trưng của động mạch
phổi và phổ 1 pha kháng lực trung bình là đặc trưng của động mạch phế quản
trung tâm.
Siêu âm đàn hồi là kỹ
thuật mới, quan sát tổn thương theo chiều kích mới, đó là dựa vào độ cứng của tổn
thương. Chúng tôi chưa tìm thấy báo cáo nghiên cứu nào trước đây về siêu âm đàn
hồi chẩn đoán tổn thương đặc ở phổi.
Kỹ thuật tạo hình xung
lực bức xạ âm (Acoustic Radiation Force Impulse Imaging – ARFI) trên máy Siemen
Acuson S2000 là kỹ thuật dùng chùm sóng âm tập trung tác động vào vùng quan tâm
(region of interest - ROI) gây sự dời chỗ mô. Sự dời chỗ sinh ra sóng biến dạng
là sóng ngang. Kỹ thuật này gồm hai phần: Một là bản đồ đàn hồi (VTI-Virtual Touch
Tissue Imaging), ghi lại sự dời chỗ mô, với quy luật vật lý là mô càng cứng thì
sự dời chỗ càng ít và được mã hóa thành màu đen. Hai là định lượng vận tốc sóng
biến dạng (VTQ-Virtual Touch
Tissue Quantification) với quy luật vật lý là mô càng cứng thì tốc độ truyền
sóng càng cao (hình 8).
Mục
đích
Sử dụng kỹ thuật ARFI
khảo sát các tổn thương đặc phổi ngoại vi, kết hợp với siêu âm B-mode và
Doppler để đánh giá khả năng của kỹ thuật ARFI trong chẩn đoán phân biệt các tổn thương
này.
Phương
pháp và đối tượng
Tổng số 28 bệnh
nhân tại Trung tâm Y khoa Medic từ tháng 10 năm 2008 đến
tháng 12 năm 2012, tuổi từ 18 đến 79, có 16 trường hợp viêm
phổi thùy (57,1%), 6 trường hợp xẹp
phổi (21,4%), 4 trường hợp ung
thư phế quản (14,2%),
2 trường hợp lymphoma di căn phổi (7,1%).
6 trường hợp được làm siêu âm đàn hồi ARFI, bao gồm 3 trường
hợp viêm phổi thùy và 3 trường
hợp xẹp phổi. Mỗi trường hợp được đo
ARFI (VTQ) 5
lần. Sử dụng phần
mềm thống kê Medcalc để
so sánh giá trị ARFI (V=m/giây) giữa hai nhóm.
Tất cả các trường hợp
đã được chụp X-Quang phổi, xét nghiệm máu và siêu âm bằng đầu dò cong 3,5 MHz
hoặc đầu dò thẳng 7,5 MHz trên nhiều loại máy siêu âm (Siemens, Aloka,
Medison,…). Chụp cắt lớp vi tính dùng trong các trường hợp chẩn đoán không rõ
ràng (10 trường hợp, 35.7%).
Kết
quả
16 trường hợp viêm phổi thùy, thường ở
thùy dưới của phổi (87,5%),
có hình
tam giác (94%), bờ đều
(68,7%), đồng phản âm với
mô gan (25%), có khí ảnh nội phế quản (air
bronchogram) (94%), có
hình ảnh cây mạch máu (9 trường hợp,
56%), phổ 3 pha kháng
lực cao trên
siêu âm Doppler (7/9 trường hợp, 77,8%) (hình 1,
hình 2).
6 trường hợp xẹp phổi, thường
có hình tam giác (100%), bờ đều
(83,3%), tăng âm (100%), cây mạch máu (2/6 trường hợp), phổ Doppler 3 pha kháng lực cao (2/2 trường
hợp), khí ảnh nội phế quản
(50%) (hình 3, hình 8).
4 trường hợp ung thư phế quản, thường có hình bầu dục (75%), bờ
không đều (75%), giảm âm (100%), không có khí ảnh nội
phế quản, có mạch máu đơn lẻ (4 trường hợp, 100%), phổ 1
pha kháng lực thấp (3/4 trường hợp, 75%) (Hình
4, Hình 5).
Lymphoma có hình tròn
hay oval, phản âm kém giống và mạch máu đơn lẻ, không có khí ảnh nội phế quản
(Hình 6).
Vận tốc sóng biến dạng của viêm phổi
thùy từ 2,06 đến 4,02 m/giây (trung bình=3,11 ± 0,99 m/giây), và của xẹp phổi từ 0,94 đến 1,93 m/giây (trung bình=1,52 ±
0,46 m/giây). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm với t = 2,896 (p = 0,034)
(hình 7, hình 8).
Kết
luận
Đây là một nghiên cứu sơ bộ về siêu âm đàn hồi ARFI trong chẩn
đoán phân biệt tổn thương đặc phổi ở ngoại vi, kết hợp với siêu âm B-mode và Doppler. Kết
quả ban đầu cho thấy vận tốc sóng biến dạng ARFI của viêm phổi thùy cao hơn
(cứng hơn) vận tốc sóng biến dạng của xẹp phổi.
Trong tương lai, cần nghiên cứu với số lượng lớn để xác
nhận khả năng của kỹ thuật này và ứng dụng trong thực hành lâm sàng.
Tài
liệu tham khảo
1.
Roee Lazebnik S., MD Ph.D.,Tissue Strain Analytics
- Virtual Touch Tissue Imaging and Quantification, Siemens ACUSON S2000
Utrasound System, Siemens Medical Solutions, USA, Inc, Mountain View,
CA USA, 2008.’
2.
Color Doppler Sonographic
Mapping of Pulmonary Lesions, Evidence of
Dual Arterial Supply by Spectral Analysis, Christian Görg, MD, Ulf Seifart, MD,
Konrad Görg, MD and Gerhard Zugmaier, MD Medizinische Universitätsklinik,
Marburg, Germany.
3.
HEPATIZATION OF A LUNG LOBE
AS A CAUSE OF PERSISTENT COUGH, Ali Emad MD,
Shiraz University of Medical Sciences, Shiraz, Iran.
4.
Real-time lung ultrasound
for the diagnosis of alveolar consolidation and interstitial syndrome in the
emergency department. Volpicelli, Giovanni; Silva, Fernando; Radeos,
Michael. European Journal of Emergency Medicine: April 2010 - Volume 17 - Issue
2 - pp 63-72.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét