SIÊU ÂM ĐÀN HỒI THẬN
Costanza Bruno et al
Ngay từ đầu, siêu âm đàn hồi thận là thách thức vì cho
nhiều kết quả khác nhau. Đầu mối tìm hiểu các xung đột kết quả trên có thể từ
phân tích nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc đo đàn hồi ARFI. Nhiều kết quả thì do
mô đích khác nhau trong khi, quan trọng nhất là
liên quan với cấu tạo giải phẫu thận.
Thận là cơ quan
không đẳng hướng cao, gây ra những hồi âm theo các hướng tùy thuộc vào vài đặc
tính của các thành phần cấu tạo. Đặc biệt, tủy thận [nơi các quai Henle và các ống thẳng
song song nhau được hướng từ bao đến nhú thận] rất khác biệt với vỏ, hầu như
chiếm bởi các cầu thận và các ống lượn gần và xa nên có dạng hình cầu. Điều này
có nghĩa là khi chùm siêu âm song song đến với một phần thận, SW tạo ra sẽ đi
vuông góc với các cấu trúc tủy thận, do vậy tạo ra vô số các mặt phẳng phân
cách, và do vậy tốc độ lan truyền giảm xuống. Ngược lại, khi chùm siêu âm vuông góc với các quai
Henle và các ống thẳng, SW tạo ra sẽ truyền đi song song với các cấu trúc này
và ít gặp các mặt phẳng phân cách hơn; điều này sẽ đo SW cao hơn phản hồi, như
trong một mô hình thực nghiệm của
Supersonic Shear Wave.
Đàn hồi, biến thiên bình quân của shear modulus biểu
kiến do không đẳng hướng tủy thận là 31,8% tương đồng với 40% của phân đoạn
không đẳng hướng khi dùng diffusion MRI. Ngoài ra, không đẳng hướng của các yếu
tố khác có liên quan chặt với chức năng của chúng có thể gây ảnh hưởng đánh giá
thận bằng ARFI.
Trong cùng một mô hình nghiên cứu, đã chứng minh có tương
quan tuyến tính giữa tăng áp lực niệu do thắt niệu quản. Thay đổi dòng chảy động
mạch và tĩnh mạch cũng được tìm thấy gây
ảnh hưởng điều hòa SWV; đặc biệt tắc động mạch thận gây giảm và thắt tĩnh mạch
thận gây tăng.
Các kết quả
tương tự cũng được tìm thấy trong mô hình thực nghiệm khác, với 2 điều kiện
khác nhau: tắc niệu quản và tắc tĩnh mạch
thận. Mức độ hóa xơ khác biệt có ý nghĩa khi so sánh với thận bình thường; hóa
xơ do gây tắc niệu quản thấp hơn hóa xơ do gây tắc tĩnh mạch thận. SWV có tương
quan dương tính với biểu hiện mô học.
Bên cạnh những yếu tố này thuộc về cơ quan đích, còn có những yếu tố
khác ảnh hưởng đến truyền SW, đặc biệt
là đè ép thận, khi đánh giá các thận ghép nông. Do đó phải sử dụng kỹ thuật chuẩn
và chính xác nhằm làm giảm biến thiên khi đo.
Vì ứ đọng nước tiểu bàng quang có ảnh hưởng đến dữ liệu
nghiên cứu, nên khảo sát sau khi đi tiểu, và vùng ROI song song với chùm siêu
âm chính và hoàn toàn trong vùng vỏ thận (khó khi bề dày vỏ thận giảm đi và ROI cố định); và để
làm giảm tình trạng không đẳng hướng, và với để cùng trục với tháp thận, nên chọn làm ở
1/3 giữa thận là dễ dàng nhất.
Về tương quan giữa tần số đầu dò và SWV, nên dùng HF
probe 6 MHz cho trẻ em và cho người lớn 4 MHz, để có những kết quả có thể đối chiếu.
Không có đồng thuận nào về tư thế, có tư thế nằm sấp,
nghiêng bên và nằm ngữa.
ARFI ở trẻ em thường thấp và tăng dần theo tuổi, chú ý
trẻ dưới 5 tuổi.
BỆNH LÝ THẬN LAN TỎA
Sau những kêt quả ARFI
đạt được trong đánh giá gan, xu hướng đánh giá thận được phát triển giả định
dựa vào tế bào to, xơ hóa kẽ mức độ cao dẫn đến mất chức năng nephron, là
nguyên nhân bệnh lý thận mạn tính.
Tiếp cận không xâm lấn
bệnh lý thận mạn tính cần cả các thông số hình thái [kích thước, bề dày vỏ
thận, đường kính bể thận] và chỉ số cản RI giúp định lượng và xác định mức độ tổn
thương. Điều này giúp sinh thiết thận nếu cần và chụp scintigraphy với
99mTc-DMSA theo guidelines trong đánh giá vài dạng của trẻ em.
Thận ghép:
Kết quả rất khác nhau
Trong nghiên cứu thăm
dò, Amdt cho thấy độ cứng chủ mô đánh giá bằng TE có liên quan với xơ hóa mô kẽ,
có tương quan tốt giữa độ cứng vỏ với thoái hóa mô toàn bộ ở Supersonic SWE.
He và cs thấy có tương
quan giữa SWV và eGFR với độ nhạy 72% và độ chuyên biệt 86,5% trong đánh giá
mất chức năng thận ghép. Thận ghép bị
thải ghép cấp có SWV thấp hơn thận ghép có bệnh lý thận, giá trị SWE trung bình
cao hơn ở bệnh nhân có eGFR thấp hơn [<50 vs=""> - 50mL/min]. 50>
Mặt khác Syversveen và
cs nhận thấy ARFI không thể phát hiện xơ hóa thận ghép với xu hướng giảm SWV
trung bình từ xơ hóa độ thấp đến cao và tương tự như Gao và cs báo cáo, giá trị độ cứng cao hơn ở bn xơ hóa nhỏ hơn 25% hơn ở nhóm xơ hóa lớn hơn 26%.
Thận mạn tính:
Vì cho đánh giá thận
ghép mạn tính cũng như xem xét bệnh thận mạn, kết quả rất khác nhau do vấn đề
chuẩn hóa nghiên cứu.
Wang báo cáo không tương
quan giữa mức độ xơ hóa với SWV ở 45 bn, phần đông bị bệnh lý thận IgA. Các tác
giả khác nhận thấy SWV giảm dần với sự tăng CKD và với giảm GFR. Điều này có
thể giải thích do giảm dần lưu lượng máu thận do xơ hóa mạch máu thận, làm ảnh
hưởng đến SWV hơn là mô thận xơ hóa. Kết quả tương tự xảy ra ở bệnh nhân thận
mạn tính do tiểu đường. ARFI có khả năng phân biệt các giai đoạn bệnh thận tiểu
đường khác nhau; có tương quan đảo ngược
giữa giá trị ARFI và GFR.
Phát hiện này bao gồm
phát hiện của thực nghiệm của Gennisson
cho thấy SWV giảm sau thắt động mạch thận.
Thận trẻ em:
Đánh giá thận trẻ em là
thách thức đặc biệt do trẻ em khó nín thở khi khám. Ứng dụng chính là khảo sát
bệnh thận mạn và xử trí tổn thương thận khi thận ứ nước.
Trẻ dưới 2 tuổi với bể
thận giãn, SWV cao hơn với ứ nước thận mức độ cao khi so với thận bình thường,
mặc dù ARFI không phân biệt được ứ nước thận bế tắc với ứ nước thận không do bế
tắc.
Dù có liên quan giữa
loại bế tắc và SWV, trẻ em với bệnh lý thận mạn tính do bế tắc có ARFI cao hơn
trẻ bị thận mạn tính không do bế tắc. Ở trẻ bị bệnh một bên, thận bên lành lại
có SWV cao hơn nhóm chứng.
Bệnh lý khu trú:
Các báo cáo đầu tiên của ARFI đánh giá khối u thận đã công bố và đặc biệt phân biệt lành và ác tính. Sau những cố gắng ban đầu đánh giá các u thận để thu thập các thông tin về bản chất tổn thương, nhiều nghiên cứu chuẩn được thực hiện.
Nang thận có SWV thấp.
Khác biệt giữa RCC và AML có ý nghĩa thống kê trong một cohort study số liệu lớn với điểm cut off là 1,87m/s với độ nhạy 47,5% và độ đặc hiệu là 33,2%. Oncocytoma thường gây ra vấn đề khi phân biệt với RCC, thường cũng nhiều mạch máu, có SWV thấp hơn.
Khi khảo sát khác biệt của nhóm phụ của RCC, SWV của clear cell RCC cao hơn SWV của papillarry RCC, chromophobe RCC và angiomyolipoma AML.
Với kích thước ROI cố định 1x0,5 cm, đặc biệt khó đánh giá một khối không đồng nhất hoặc một tổn thương dạng nang, vì cần tránh các vùng hoại tử hay nang hóa để có kết quả có thể lập lại.
Các báo cáo đầu tiên của ARFI đánh giá khối u thận đã công bố và đặc biệt phân biệt lành và ác tính. Sau những cố gắng ban đầu đánh giá các u thận để thu thập các thông tin về bản chất tổn thương, nhiều nghiên cứu chuẩn được thực hiện.
Nang thận có SWV thấp.
Khác biệt giữa RCC và AML có ý nghĩa thống kê trong một cohort study số liệu lớn với điểm cut off là 1,87m/s với độ nhạy 47,5% và độ đặc hiệu là 33,2%. Oncocytoma thường gây ra vấn đề khi phân biệt với RCC, thường cũng nhiều mạch máu, có SWV thấp hơn.
Khi khảo sát khác biệt của nhóm phụ của RCC, SWV của clear cell RCC cao hơn SWV của papillarry RCC, chromophobe RCC và angiomyolipoma AML.
Với kích thước ROI cố định 1x0,5 cm, đặc biệt khó đánh giá một khối không đồng nhất hoặc một tổn thương dạng nang, vì cần tránh các vùng hoại tử hay nang hóa để có kết quả có thể lập lại.
Trích dịch từ Atlas of Elastosonography, D-A CLEVER et
al, © Springer Intern Publ. Switzerland 2017.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét