Từ Evaluation of Sound Speed for Detection of Liver Fibrosis, Prospective Comparison With Transient Dynamic Elastography and Histology
Bita Boozari, Andrej Potthoff, Ingmar Mederacke, Andreas Hahn, Ansgar Reising, Kinan Rifai, Heiner Wedemeyer, Matthias Bahr, Stefan Kubicka, Michael Manns, and Michael Gebel, J Ultrasound Med 29:1581-1588 • 0278-4297
Các thay đổi của tốc độ siêu âm (sound velocity [SV]) ở gan phản ánh độ cứng của gan và tương ứng với các giai đoạn xơ hóa ở bệnh nhân viêm gan mạn. Tốc độ siêu âm SV cũng tùy thuộc vào đặc điểm đàn hồi của mô.
Đó là mục đích của một nghiên cứu thăm dò tiền cứu ở 50 người tình nguyện khỏe mạnh và 149 bệnh nhân viêm gan mạn với kỹ thuật đo tốc độ siêu âm SV bằng máy Zonare quy ước với đầu dò C5–2-MHz (Zonare Medical Systems, Inc, Mountain View, CA) và đối chiếu với máy FibroScan (TE, 50-Hz vibrator, 5-MHz array). Trong số đó có 84 người được sinh thiết gan xem như yếu tố tham khảo theo hệ thống đánh giá giai đoạn xơ hóa METAVIR. Số liệu thống kê mô tả, phân tích biến số, phân tích đường cong ROC (receiver operating characteristic curve) và phân tích biểu đồ hình hộp (box plot) cũng như phân tích tính lập lại của người khám (intra-operator and interoperator reproducibility) được thực hiện.
Đo tốc độ siêu âm SV
Các bệnh nhân được đo bởi 2 người làm siêu âm hệ tiêu hóa có nhiều kinh nghiệm, mù với kết quả của đo độ đàn hồi gan tức thì (transient elastography, TE) và kết quả sinh thiết gan.
Vì mô được xem như đẳng hướng (isotropic), độ đàn hồi sóng biến dạng (shear wave modulus ) có tương quan với độ đàn hồi Young. Do đó tốc độ siêu âm SV phản ánh chặt chẽ các đặc điểm đàn hồi. Sai số của tốc độ siêu âm SV có ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh (làm mờ) nên cần được hiệu chỉnh. Khác biệt của calibrated SV (1540 m/s) và tốc độ siêu âm thực sự trong vùng ROI (region of interest) gọi là chỉ số tốc độ vùng [zone speed index (ZSI)].
Đo ở thùy gan phải qua khoảng liên sườn khi bệnh nhân nằm ngửa, tay phải dạng tối đa. Vùng ROI ở gan phải dưới bao gan 1cm, có kích thước chuẩn 35x35mm. Khi vùng đích được định vị, người khám ấn nút đo. Chỉ số tốc độ vùng ZSI của vùng ROI do máy xác định; các tốc độ trong khoảng 1400 đến 1650m/s với khoảng giá trị của 10m/s. Mỗi bệnh nhân phải ngưng thở để đo 6 lần và lấy trị số trung bình của tốc độ siêu âm của gan để có độ tin cậy cần thiết.
Kết quả
Tốc độ siêu âm SV 1589 m/s hay cao hơn có nghĩa là gan đã chai (cirrhosis) với độ nhạy cao.
Trong nghiên cứu trên, tốc độ SV trong khoảng 1540 đến 1650 m/s. Giá trị SV± SD khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa người khỏe mạnh (1559 ± 11 m/s) và bệnh nhân với F0–F3 (1575 ± 21 mm/s) và F4 (1594 ± 18 m/s) với (P nhỏ hơn 0,001). Để phát hiện chai gan vùng dưới đường cong ROC của SV là 0,80 (khoảng tin cậy 95%, 0,69–0,89). Với cutoff value=1589m/s, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và âm tính lần lượt là 82%, 76%, 70%, và 86%. Độ lập lại là 15% và độc lập với người khám là 19%.
Lợi ích của đo tốc độ siêu âm SV so với đo độ đàn hồi tức thì TE: (1) đo được tốc độ SV ở tất cả bệnh nhân mà không có trở ngại kỹ thuật nào; (2) đo được tốc độ SV các vùng của gan; (3) đo được tốc độ SV với máy siêu âm thường quy mà không phải đầu tư thêm và có thêm thông tin về gan có cấu trúc hạt và các biến chứng ngoài gan; và (4) có lợi ích kinh tế khi khám kiểm tra bệnh nhân viêm gan siêu vi mạn.
Do đó đo tốc độ siêu âm SV là phương pháp mới định lượng xơ hóa gan không xâm lấn đầy hứa hẹn.
--------------------------------------
Zone Sonography Technology
CÔNG NGHỆ SIÊU ÂM VÙNG (Zone Sonography Technology)
Là cách tiếp cận mới để thu thập dữ liệu siêu âm và tạo hình của hãng ZONARE Medical Systems.
Công nghệ này, dựa vào phần mềm, lấy dữ liệu siêu âm rất nhanh, nhanh 10 lần hơn các máy siêu âm quy ước khác, trong một số nhỏ “vùng” rộng, mỗi vùng chứa dung lượng dữ liệu tương đương với rất nhiều lines trong các máy siêu âm quy ước khác.