Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 23 tháng 1, 2017

SIÊU ÂM ĐÀN HỒI ĐỘNG MẠCH CẢNH

SIÊU ÂM ĐÀN HỒI ĐỘNG MẠCH CẢNH
DIRK-ANDRE CLEVERT

Stroke là nguyên nhân gây chết thứ ba sau nhồi máu cơ tim và ung thư.
Xơ vữa động mạch có thể tác động chính mạch máu nội sọ; 88% bệnh nhân mù đột ngột do lấp mạch [amaurosis fugax] hoặc tai biến thiếu máu bán cầu não thoáng qua đều có bệnh vữa xơ động mạch ở chỗ chia đôi động mạch cảnh.
Vào khoảng 25-50% các loại tai biến là do mảng xơ vữa động mạch cảnh mất ổn định và khoảng 80% các tai biến là thiếu máu não.
Điều trị hẹp động mạch cảnh trong cần phân biệt chẩn đoán trước can thiệp là hẹp mức độ cao, giả tắc và tắc.
Những kết quả của  NASCET và ECST cho thấy bênh nhân hẹp mức độ cao 70-90% động mạch cảnh trong  có triệu chứng được lợi khi làm carotid endarterectomy [CEA], theo guidelines của AHA và EC của ACAS, CEA cũng là phương thức được chọn để điều trị bệnh nhân hẹp  ICA mức cao không triệu chứng.
Tuy nhiên khi làm surgical endarterectomy hoặc đặt stent động mạch cảnh để làm giảm nguy cơ stroke, có 3-9% bệnh nhân qua can thiệp này phải bị stroke hoặc chết do biến chứng điều trị. Bệnh nhân đặt stent có  biến chứng nguy cơ cao hơn làm endarterectomy.
Phương pháp đánh giá bệnh lý động mạch cảnh không xâm lấn là Doppler màu và phổ cho đoạn ngoài sọ. Nhưng Doppler có các hạn chế và không thể đánh giá đầy đủ khi phân biệt hẹp nặng với tắc hoàn toàn khi Duplex Doppler không tối hão.
Hiện nay chỉ có vài bài báo được in về phân tích đo đạc  tissue strain trong bệnh lý mạch máu. 


Dịch từ Atlas of Elastosonography, D-A CLEVER et al, © Springer Intern Publ. Switzerland 2017.

ĐỌC THÊM:

Shear Wave Elastography May Be Superior to Grayscale Median for the Identification of Carotid Plaque Vulnerability: A Comparison with Histology, F. Ozkan, D. Ozel, B. D. Ozel


  
... The authors report that shear wave elastography (SWE) findings regarding plaque stiffness may be used to help identify vulnerable plaque [1]. However, they found that there is a large overlap in Young’s Modulus values between stable and unstable plaques and this indistinctness requires attention to the interpretation of the ultrasound measurements for evaluating patients in routine clinical practice.
Because of the prominent role of carotid plaque in stroke incidence, their biomechanics have attracted significant scientific interest. There are several reports in the literature regarding the use of different methods to determine properties of plaque components [2] [3] [4]. In these methods, viscoelasticity is one of main parameters for clearly characterizing atherosclerotic plaques [2] [3] [4]. Elastography imaging is a novel ultrasound technique for quantifying tissue elasticity. However, studies have generally focused on the elastic properties of tissue, not on the viscosity [5]. Moreover, it has been claimed that if viscosity is not regarded, measurements of stiffness can be biased, and the results may be greater than the real values [6] [7]. Therefore, it is essential that viscosity be measured in order to fully characterize atherosclerotic plaques.
Garrard et al. could easily have analyzed the viscosity parameters of the atherosclerotic plaques because in a recent study, the viscosity in the liver was measured using post-processing techniques and the same ultrasound imaging system as Garrard et al. (Aixplorer, Supersonic Imagine, Aix-en-Provence, France) [8]. We believe that the large overlap in Young’s Modulus might be decreased by adding viscosity measurements.

Shear wave elastography imaging of carotid plaques: feasible, reproducible and of clinical potential

Kumar V Ramnarine, James W Garrard , Baris Kanber , Sarah Nduwayo , Timothy C Hartshorne and Thompson G Robinson

Abstract

Background: Shear Wave Elastography (SWE) imaging is a novel ultrasound technique for quantifying tissue elasticity. Studies have demonstrated that SWE is able to differentiate between diseased and normal tissue in a wide range clinical applications. However its applicability to atherosclerotic carotid disease has not been established.
The aim of this study was to assess the feasibility and potential clinical benefit of using SWE imaging for the assessment of carotid plaques.

Methods: Eighty-one patients (mean age 76 years, 51 male) underwent greyscale and SWE imaging. Elasticity was quantified by measuring mean Young’s Modulus (YM) within the plaque and within the vessel wall. Echogenicity was assessed using the Gray-Weale classification scale and the greyscale median (GSM).

Results: Fifty four plaques with stenosis greater than 30% were assessed. Reproducibility of YM measurements, quantified by the inter-frame coefficient of variation, was 22% within the vessel wall and 19% within the carotid plaque. Correlation with percentage stenosis was significant for plaque YM (p = 0.003), but insignificant for plaque GSM (p = 0.46). Plaques associated with focal neurological symptoms had significantly lower mean YM than plaques in asymptomatic patients (62 kPa vs 88 kPa; p = 0.01). Logistic regression and Receiver Operating Characteristic (ROC) analysis showed improvements in sensitivity and specificity when percentage stenosis was combined with the YM (area under ROC = 0.78).

Conclusions: Our study showed SWE is able to quantify carotid plaque elasticity and provide additional information that may be of clinical benefit to help identify the unstable carotid plaque.

SIÊU ÂM ĐÀN HỒI THẬN

SIÊU ÂM ĐÀN HỒI THẬN
Costanza Bruno et al

Ngay từ đầu, siêu âm đàn hồi thận là thách thức vì cho nhiều kết quả khác nhau. Đầu mối tìm hiểu các xung đột kết quả trên có thể từ phân tích nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc đo đàn hồi ARFI. Nhiều kết quả thì do mô đích khác nhau trong khi, quan trọng nhất là liên quan với cấu tạo giải phẫu thận.

Thận là cơ quan không đẳng hướng cao, gây ra những hồi âm theo các hướng tùy thuộc vào vài đặc tính của các thành phần cấu tạo. Đặc biệt, tủy thận [nơi các quai Henle và các ống thẳng song song nhau được hướng từ bao đến nhú thận] rất khác biệt với vỏ, hầu như chiếm bởi các cầu thận và các ống lượn gần và xa nên có dạng hình cầu. Điều này có nghĩa là khi chùm siêu âm song song đến với một phần thận, SW tạo ra sẽ đi vuông góc với các cấu trúc tủy thận, do vậy tạo ra vô số các mặt phẳng phân cách, và do vậy tốc độ lan truyền giảm xuống. Ngược lại, khi chùm siêu âm vuông góc với các quai Henle và các ống thẳng, SW tạo ra sẽ truyền đi song song với các cấu trúc này và ít gặp các mặt phẳng phân cách hơn; điều này sẽ đo SW cao hơn phản hồi, như trong một mô hình thực nghiệm của Supersonic Shear Wave.

Đàn hồi, biến thiên bình quân của shear modulus biểu kiến do không đẳng hướng tủy thận là 31,8% tương đồng với 40% của phân đoạn không đẳng hướng khi dùng diffusion MRI. Ngoài ra, không đẳng hướng của các yếu tố khác có liên quan chặt với chức năng của chúng có thể gây ảnh hưởng đánh giá thận bằng ARFI.
Trong cùng một mô hình nghiên cứu, đã chứng minh có tương quan tuyến tính giữa tăng áp lực niệu do thắt niệu quản. Thay đổi dòng chảy động mạch và tĩnh mạch cũng được tìm thấy gây ảnh hưởng điều hòa SWV; đặc biệt tắc động mạch thận gây giảm và thắt tĩnh mạch thận gây tăng.
 Các kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong mô hình thực nghiệm khác, với 2 điều kiện khác nhau: tắc niệu quản và tắc tĩnh mạch thận. Mức độ hóa xơ khác biệt có ý nghĩa khi so sánh với thận bình thường; hóa xơ do gây tắc niệu quản thấp hơn hóa xơ do gây tắc tĩnh mạch thận. SWV có tương quan dương tính với biểu hiện mô học.
Bên cạnh những yếu tố này  thuộc về cơ quan đích, còn có những yếu tố khác ảnh hưởng đến truyền SW, đặc biệt là đè ép thận, khi đánh giá các thận ghép nông. Do đó phải sử dụng kỹ thuật chuẩn và chính xác nhằm làm giảm biến thiên khi đo.
Vì ứ đọng nước tiểu bàng quang có ảnh hưởng đến dữ liệu nghiên cứu, nên khảo sát sau khi đi tiểu, và vùng ROI song song với chùm siêu âm chính và hoàn toàn trong vùng vỏ thận (khó khi bề dày vỏ thận giảm đi và ROI cố định); và để làm giảm tình trạng không đẳng hướng,  và  với để cùng trục với tháp thận, nên chọn làm ở 1/3 giữa thận là dễ dàng nhất.




Về tương quan giữa tần số đầu dò và SWV, nên dùng HF probe 6 MHz cho trẻ em và cho người lớn 4 MHz, để có những kết quả có thể đối chiếu.
Không có đồng thuận nào về tư thế, có tư thế nằm sấp, nghiêng bên và nằm ngữa.
ARFI ở trẻ em thường thấp và tăng dần theo tuổi, chú ý trẻ dưới 5 tuổi.

BỆNH LÝ THẬN LAN TỎA
Sau những kêt quả ARFI đạt được trong đánh giá gan, xu hướng đánh giá thận được phát triển giả định dựa vào tế bào to, xơ hóa kẽ mức độ cao dẫn đến mất chức năng nephron, là nguyên nhân bệnh lý thận mạn tính.
Tiếp cận không xâm lấn bệnh lý thận mạn tính cần cả các thông số hình thái [kích thước, bề dày vỏ thận, đường kính bể thận] và chỉ số cản RI giúp định lượng và xác định mức độ tổn thương. Điều này giúp sinh thiết thận nếu cần và chụp scintigraphy với 99mTc-DMSA theo guidelines trong đánh giá vài dạng của trẻ em.

Thận ghép:
Kết quả rất khác nhau
Trong nghiên cứu thăm dò, Amdt cho thấy độ cứng chủ mô đánh giá bằng TE có liên quan với xơ hóa mô kẽ, có tương quan tốt giữa độ cứng vỏ với thoái hóa mô toàn bộ ở Supersonic SWE.
He và cs thấy có tương quan giữa SWV và eGFR với độ nhạy 72% và độ chuyên biệt 86,5% trong đánh giá mất chức năng thận ghép. Thận ghép bị thải ghép cấp có SWV thấp hơn thận ghép có bệnh lý thận, giá trị SWE trung bình cao hơn  ở bệnh nhân có eGFR thấp hơn [<50 vs=""> - 50mL/min].
Mặt khác Syversveen và cs nhận thấy ARFI không thể phát hiện xơ hóa thận ghép với xu hướng giảm SWV trung bình từ xơ hóa độ thấp đến cao và tương tự như  Gao và cs báo cáo, giá trị độ cứng cao hơn ở bn xơ hóa nhỏ hơn 25% hơn ở nhóm xơ hóa lớn hơn 26%.


Thận mạn tính:
Vì cho đánh giá thận ghép mạn tính cũng như xem xét bệnh thận mạn, kết quả rất khác nhau do vấn đề chuẩn hóa nghiên cứu.
Wang báo cáo không tương quan giữa mức độ xơ hóa với SWV ở 45 bn, phần đông bị bệnh lý thận IgA. Các tác giả khác nhận thấy SWV giảm dần với sự tăng CKD và với giảm GFR. Điều này có thể giải thích do giảm dần lưu lượng máu thận do xơ hóa mạch máu thận, làm ảnh hưởng đến SWV hơn là mô thận xơ hóa. Kết quả tương tự xảy ra ở bệnh nhân thận mạn tính do tiểu đường. ARFI có khả năng phân biệt các giai đoạn bệnh thận tiểu đường khác nhau; có tương quan đảo ngược giữa giá trị ARFI và GFR.
Phát hiện này bao gồm phát hiện của thực nghiệm của Gennisson cho thấy SWV giảm sau thắt động mạch thận.

Thận trẻ em:
Đánh giá thận trẻ em là thách thức đặc biệt do trẻ em khó nín thở khi khám. Ứng dụng chính là khảo sát bệnh thận mạn và xử trí tổn thương thận khi thận ứ nước.
Trẻ dưới 2 tuổi với bể thận giãn, SWV cao hơn với ứ nước thận mức độ cao khi so với thận bình thường, mặc dù ARFI không phân biệt được ứ nước thận bế tắc với ứ nước thận không do bế tắc.
Dù có liên quan giữa loại bế tắc và SWV, trẻ em với bệnh lý thận mạn tính do bế tắc có ARFI cao hơn trẻ bị thận mạn tính không do bế tắc. Ở trẻ bị bệnh một bên, thận bên lành lại có SWV cao hơn nhóm chứng.


Bệnh lý khu trú:

Các báo cáo đầu tiên của  ARFI đánh giá khối u thận đã công bố và đặc biệt phân biệt lành và ác tính. Sau những cố gắng ban đầu đánh giá các u thận để thu thập các thông tin về bản chất tổn thương, nhiều nghiên cứu chuẩn được thực hiện.
Nang thận có SWV thấp.
Khác biệt giữa RCC và AML có ý nghĩa thống kê trong một cohort study số liệu lớn với điểm cut off là 1,87m/s với độ nhạy 47,5% và độ đặc hiệu là 33,2%. Oncocytoma thường gây ra vấn đề khi phân biệt với RCC, thường cũng nhiều mạch máu, có SWV thấp hơn.
Khi khảo sát khác biệt của nhóm phụ của RCC, SWV của clear cell RCC cao hơn SWV của papillarry RCC, chromophobe RCC và angiomyolipoma AML.
Với kích thước ROI cố định 1x0,5 cm, đặc biệt khó đánh giá một khối không đồng nhất hoặc một tổn thương dạng nang, vì cần tránh các vùng hoại tử hay nang hóa để có kết quả có thể lập lại.

Trích dịch từ Atlas of Elastosonography, D-A CLEVER et al, © Springer Intern Publ. Switzerland 2017.